Vay nóng Tima

Truyện:Động Đình Hồ ngoại sử - Hồi 02

Động Đình Hồ ngoại sử
Trọn bộ 30 hồi
Hồi 02: Thiên Ưng Lục Tướng
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-30)

Siêu sale Shopee

Trưng Nhị kiểm điểm lại, ước tính bên Thục tổn thất khoảng trên một vạn người. Lối tính cổ cứ một bị bắt, có 4 vừa bị thương, vừa bị chết. Còn bên Hán chỉ có hơn ba nghìn chết, khoảng một vạn bị thương. Binh tướng bên Hán đồn đại Trưng Nhị, Phương-Dung có tài như Khương Thái-Công, Tôn Tử, Ngô Khởi; Hồ Đề, Phật-Nguyệt có phép tiên.

Ngược lại trong lòng Đặng Vũ ẩn tàng một mối lo nghĩ rằng hắn không bắt được Công-tôn Thuật, không làm chúa được đất Thục. Hắn nghĩ cách, làm cách nào vào Thành-đô trước, nhưng nghĩ hoài không ra. Binh tướng được nghỉ ngơi dưỡng sức.

Nghiêm Sơn tổ chức cuộc khao quân thật lớn, thăng cấp những tướng sĩ có công, phủ tuất những gia đình tử sĩ. Trong tiệc khao quân, tướng sĩ Hán uống rượu ăn thịt vui vẻ hơn bao giờ hết. Vì đã từ lâu đạo Kinh-châu của Đại tư-mã Đặng Vũ và Phiêu-kỵ đại tướng quân Sầm Bành đánh nhau với Công-tôn Thiệu bị bại mấy trận, binh sĩ chết không được bổ sung. Bây giờ Nghiêm Sơn mang các anh hùng Lĩnh-nam sang trợ chiến. Trận đầu, không dùng bất cứ một tướng nào bên Hán, mà thắng Thục oanh liệt.

Trước trận họ thấy tuyệt diệu nhất là Hồ Đề, một cô gái người Mường, trang phục xanh, đỏ kỳ lạ, nói tiếng Hán không sõi, tính tình bộc trực, võ công không cao, nhưng với đội Thần-ưng của nàng làm cho cả hai bên đều kinh hoảng. Rồi nàng dùng ngựa Ô cho đớp hai quả cật ngựa của Công-tôn Thiệu. Nàng lại phóng ám khí làm Công-tôn Thiệu phải lột quần áo, còn dùng trăn trói tướng Thục. Họ thấy cô gái ẻo lả, thâm trầm ít nói như Phật-Nguyệt, mà đánh bại đại tướng quân bên Thục là Vũ Chu.

Trong tiệc, Nghiêm Sơn nhận thấy đám anh hùng Lĩnh-nam dường như không vui vẻ, chỉ ăn uống lấy lệ. Vương cố tìm hiểu nguyên do. Đợi tan tiệc, vương cùng Phương-Dung đến trại anh hùng Lĩnh-nam, thì tất cả đang họp. Bên ngoài Vi Đại-Lâm cùng đội Thần-ngao canh phòng rất nghiêm mật. Trên trời một đoàn Thần-ưng bay lượn, tuần phòng. Sún Lé đứng trên đài cao chỉ huy. Nghiêm Sơn nói với Phương-Dung:

– Sư muội Trưng Nhị có tài đế-vương chứ không phải người thường. Năm nay nàng mới 24 tuổi mà tài đã muốn hơn ta, nếu cứ đà tiến triển này trong vòng hai năm nữa, trong thiên hạ không ai địch nổi nàng.

Phương-Dung cười:

– Như đại-ca thấy, võ công cao nhất là Khất đại-phu, đạo đức nhất là Nam-hải nữ hiệp, yêu nước nhất là Đào-hầu Cửu-chân, thế mà em không hiểu sao tất cả đều quy phục Trưng Trắc, Trưng Nhị. Chính em, võ công cao hơn Nhị Trưng; điều binh mưu trí, em hơn Trưng Nhị, nhưng tự thấy mình quy phục Trưng sư tỷ, sư tỷ nói gì em không dám cãi. Ngay sư tỷ Hồ Đề làm nữ chúa 72 động trên vùng Tây-vu, sống với thiên nhiên, coi trời nhỏ bằng cái vung, thế mà Trưng sư tỷ nói gì cũng nghe răm rắp.

Nghiêm Sơn cười:

– Để ta phân tích cho sư muội nghe. Về xung phong hãm trận, hành quân đánh giặc, các vị như Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại, Lại Thế-Cường, Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ, Lương Hồng-Châu thực là đại tài. Nhưng họ chỉ là chiến tướng, chứ không phải đại tướng. Phàm làm đại tướng, trên phải thông thiên văn, dưới phải thông địa lý; lại biết mình, biết người, biết điều khiển các chiến tướng. Sư muội, Đào Kỳ, Vĩnh-Hoa, Trưng Nhị, Trưng Trắc đều có cả. Nhưng Vĩnh-Hoa thiên về mưu và kế. Sư muội giỏi dùng binh hơn. Sư muội giỏi hơn cả ta, nên ta để sư muội làm Tổng quân sư. Đặng Vũ, Ngô Hán đều có tài đại tướng, họ không biết kết hợp giữa mưu và trí, thành tài dụng binh, vì vậy ta để Trưng Nhị với Vĩnh-Hoa làm quân sư cho họ, ta để Khất đại-phu, Phật-Nguyệt theo tòng chinh giúp họ. Chỉ riêng có Đào tiểu sư đệ, y có đủ tài. Y biết kết hợp mưu với trí, giỏi dụng binh, y vừa là đại tướng vừa là quân sư. Võ công y rất cao, ta dạy y kỹ về xung phong, hãm trận, không cần người theo giúp y về võ lực. Ta sợ y trẻ quá, có điều gì quá đáng chăng. Ta để Hoàng sư tỷ đi bên cạnh. Ta biết trên đời này y chỉ vui lòng nghe lời có ba người: Đào hầu, Đinh hầu và Hoàng sư tỷ.

Nghiêm Sơn tiếp:

– Có một điều, chỉ Nhị Trưng là có tài thu phục nhân tâm. Tài đó là tài đế vương. Chính vì vậy mà những người ngỗ nghịch như sư muội, như Hồ Đề đều khuất phục.

Phương-Dung cười:

– Còn đại ca! Đại ca biết điều khiển các tướng, biết thu phục nhân tâm, nên mới là Lĩnh-nam vương. Em như đại ca, em kéo quân về Lĩnh-nam xưng là Hoàng-đế. Trưng Nhị sư tỷ làm Thừa-tướng, Đào tam lang làm Tư-mã, em làm Tư-đồ.

Câu nói đó của Phương-Dung, đối với Nghiêm Sơn là câu nói đùa của một thiếu nữ vô tư, vương cười khì bỏ qua. Vương đâu có biết Trưng Nhị, Phương-Dung đã bàn với nhau, hầu dò ý vương.

Nghiêm Sơn cười:

– Con chim thích bay trên trời cao, con nai thích gặm cỏ bên bờ suối. Nghĩa huynh Quang-Vũ của ta thích làm hoàng-đế, còn ta, ta thích cùng Hoàng sư tỷ, ruổi ngựa ngao du bốn phương, ngắm cảnh đẹp của tạo hóa mà thôi.

Phương-Dung gật đầu:

– Hoàng sư tỷ cũng muốn thế, hôm trước em gọi Hoàng sư tỷ bằng vương-phi, sư tỷ nhíu mày lại, tỏ ý không thích. Em nghĩ kiếp trước đại ca với sư tỷ là Sào Phủ với Hứa Do thì đùng hơn.

Vi Đại-Lâm đến trước mặt Nghiêm Sơn hỏi; – Lĩnh-nam vương gia! Ngài có việc gì không? Lão còn vào báo với Trưng cô nương.

Nghiêm Sơn gật đầu:

– Lão tướng vào báo với Trưng sư muội rằng có ta với Dung muội cần gặp anh hùng Lĩnh-nam.

Vi Đại-Lâm trở vào một lúc thì Trưng Nhị ra đón. Nghiêm Sơn khen:

– Trưng muội bố phòng như thế này, đến con kiến cũng không lọt vào được, huống hồ là gian tế giặc.

Mặt Trưng Nhị lạnh lùng mời Nghiêm Sơn vào trướng, để ngồi lên thủ vị cao nhất. Nghiêm Sơn thấy không khí lạnh lùng, vương hỏi:

– Từ hơn năm nay, Đặng Vũ đánh Thục bị thất trận liên tiếp. Cho nên thiên tử mới triệu ta về đánh giặc. Chiến thắng đầu tiên hoàn toàn nhờ các vị sư thúc, sư bá, sư huynh, sư đệ. Nhưng trong buổi tiệc khao quân này, ta thấy các vị đều có ý không vui. Vì vậy ta đến đây tìm hiểu tại sao. Trong chúng ta là tình huynh đệ, chứ không phải một vị Lĩnh-nam vương đối với tướng sĩ.

Hồ Đề liếc nhìn Trưng Nhị hỏi ý kiến. Trưng Nhị gật đầu tỏ ý ưng thuận. Hồ Đề đứng lên nói:

– Khi rời Lĩnh-nam, tiểu muội được biết rằng trước đây Công-tôn Thuật là một mệnh quan của nhà Hán. Trấn giữ sáu quận, rồi nhân lúc Vương Mãng cướp ngôi, mà xưng đế đất Thục, chiếm 41 quận Tây-xuyên, sau tiến chiếm 9 quận Kinh-châu và 34 châu quận Hán-trung. Công-tôn Thiệu hợp với Ngỗi Hiêu chiếm Lũng-hữu cùng xưng đế. Hán-đế dẹp yên Ngỗi Hiêu, đất Lũng-hữu yên. Duy còn đất Thục là mối loạn, nên chúng ta giúp Hán-đế dẹp Công-tôn Thuật.

Nghiêm Sơn gật đầu:

– Thì bây giờ sư muội thấy đúng rồi đó.

Thiên-thủ viên hầu Lại Thế-Cường tiếp lời Hồ Đề:

– Qua trận đánh vừa rồi, cũng như khi xem xét dân tình, tôi thấy Công-tôn Thuật sở dĩ xưng đế, đánh bại Hán vì y xuất thân võ lâm. Võ đạo của y rất cao, y là một trong Thiên-sơn thất hùng. Nước Thục trên từ vua, xuống dưới tướng sĩ, đối xử với nhau như đám Lĩnh-nam chúng ta. Dân chúng Ích-châu sung sướng hơn dân Kinh-châu. Tôi hỏi dân Kinh-châu họ nói rằng thời Tây-Hán họ không khổ, không sướng. Đến khi Xích Mi, Vương Mãng chiếm, họ khổ vô cùng. Sau khi Thục chiếm họ rất sung sướng. Bây giờ lại thuộc Hán, họ khổ như hồi Xích Mi cai trị. Cho nên chúng tôi có cảm tưởng mình giúp kẻ bất nhân, đánh người nhân. Do đó trong tiệc chúng tôi không vui, họp nhau đây tìm hiểu sự thực.

Nghiêm Sơn ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Ta rời Quang-Vũ sang Lĩnh-nam đúng lúc chiếm Kinh-châu, nên không biết sau đó việc nội trị thế nào. Chúng ta là nghĩa hiệp, các vị nghiên cứu xem Thục có điều gì khiến dân chúng sung sướng; Hán có điều gì khiến dân chúng đau khổ, chúng ta bỏ những điều khổ cho dân, làm những gì hạnh phúc cho dân. Đặng Vũ tuy thống lãnh đạo quân này, nhưng ta ở trên. Thiên tử cho ta trọn quyền thay người, các vị đề nghị gì, ta sẵn sàng theo. Thiên tử là ta, ta là các vị. Vậy các vị đề nghị đi.

Vi Đại-Sơn tiếp:

– Ngoài trận lão thấy Vũ Chu anh hùng khí phách hiên ngang. Tướng sĩ Thục bị bắt, đều chịu chết chứ không chịu hàng. Họ giống chúng ta, chúng ta chẳng nên đánh.

Trần Năng lắc đầu:

– Lão bá nói thế thì đúng rồi, nhưng chúng ta cần giúp Quang-Vũ để phục hồi Lĩnh-nam. Vì vậy dù biết đánh người nhân cũng phải ra tay. Phục hồi đất nước trên hết.

Câu nói của Trần Năng làm mọi người tỉnh ngộ.

Sáng hôm sau Nghiêm Sơn gọi Đặng Vũ đến nói:

– Đặng đại tư-mã tài ba lỗi lạc, hãy lo chiếm Xuyên-khẩu vào Thành-đô. Ta với quân sư Phương-Dung đi Hán-trung ngay, hầu gặp Xa-kỵ đại tướng quân Ngô Hán, duyệt xét tình hình thế nào mới được. Việc quan trọng nhất ta muốn nói với Đại tư-mã rằng: Đất Ích-châu là nơi trước đây Cao-tổ nhà Hán ẩn náu, sau quật khởi đánh Sở bá vương. Vì vậy tướng quân đi đến đâu cũng phải lấy nhân nghĩa đối với trăm họ, đó là điều cần thiết vậy.

Đặng Vũ, Trưng Nhị tiễn Nghiêm Sơn, Phương-Dung lên đường. Thông thường các tướng soái đi đâu, binh tướng theo hầu cả hàng vạn để bảo vệ. Nhưng Nghiêm Sơn, Phương-Dung là người võ công cao cường, không cần hộ tống. Vương chỉ mang theo mấy thần ưng làm phương tiện liên lạc, với mười tiễn thủ của phái Hoa-lư.

Tiễn Nghiêm Sơn đi rồi, lúc trở về Hồ Đề nói với Đặng Vũ:

– Ngày mai mình chuẩn bị đánh thành Xuyên khẩu. Ở không buồn quá!

Đặng Vũ rùng rình chưa muốn tiến công, cho tới một hôm tế tác báo cho biết Thành-đô đang rúng động vì đạo quân phía Nam đã tiến tới Long-xương, Hán-nguyên. Đạo Lĩnh-nam tạm ngừng tiến công để kinh lược các thành trì, thiết lập hệ thống cai trị, đồn ải cho an toàn mới vào Thành-đô. Còn đạo quân Tây-xuyên đã đánh được Dương-bình quan, chia làm hai tiến đánh Ba-trung, Kiếm-các. Thành-đô vội đưa binh tướng ra trấn thủ mặt Nam, Bắc. Công-tôn Thuật lo lắng vô cùng. Đặng Vũ nghe báo cuống cuồng, vội tập họp tướng sĩ đánh Bạch-đế, Xuyên-khẩu càng gấp càng tốt. Trưng Nhị biết tâm lý y, nàng nên cứ rùng rình không lên tiếng.

Đặng Vũ hỏi:

– Trưng quân sư, bây giờ chúng ta phải tiến quân cho mau mới được.

Trưng Nhị giả vờ:

– Được, vậy chúng ta chiếm Xuyên-khẩu, rồi chia quân ra làm ba. Một đánh Bạch-đế, một đánh Vũ-khê, một đánh Vũ-lăng được chăng?

Đặng Vũ muốn đánh nhanh, không đồng ý:

– Theo ý tôi, ta tiến đánh Xuyên-khẩu rồi vây thành Bạch-đế cầm chân giặc. Ta tiến dọc theo sông Trường-giang đánh Bồ-lăng. Tới Bồ-lăng chia làm hai, một theo sông Bồ-giang, một theo sông Nê-giang, tiến đến uy hiếp Thành-đô.

Trưng Nhị càng đủng đỉnh:

– Đánh như vậy thì mau đấy, nhưng những ải phía sau ta chặn đường tiếp tế, ta kẹt ở giữa thì nguy đấy. Chi bằng ta cứ thong thả mặc cho hai đạo quân kia vào Thành-đô trước.

Đặng Vũ tức đến đỏ mặt lên, nhưng y vì cần Trưng Nhị nên phải nín nhịn, y nói ngọt:

– Trưng cô nương, xin cô nương giúp tôi... Trọn đời tôi nguyện không quên ơn cô nương.

Trưng Nhị thấy đùa như vậy đã đủ rồi, nàng nói:

– Thôi được, hôm nay chúng ta đánh chiếm Xuyên-khẩu, bao vây thành Bạch-đế. Như vậy Đại-tư-mã vừa ý chứ?

Đặng Vũ mừng cuống cuồng lên, bưng ấn kiếm hai tay đưa trước mặt Trưng Nhị:

– Xin Trưng quân sư điều binh cho.

Đặng Vũ sai đánh trống triệu tập quân sĩ đến nghe lệnh. Trưng Nhị lên trước trướng ngồi:

– Hôm Đặng đại-tư mã muốn chúng ta đánh Xuyên-khẩu, nhất quyết giờ Tý đêm nay phải vào trong thành. Tướng sĩ nào lui thì chém đầu làm hiệu lệnh dù cấp nào cũng quyết không tha.

Các tướng Hán nghe nói, mặt nhìn mặt ngẩn ngơ. Kiến-oai đại tướng quân Cảnh Yểm đứng lên thưa:

– Thưa quân sư trận đầu quân sư không dùng đến chúng tôi, chỉ dùng các tướng Lĩnh-nam mà thắng giặc. Hôm trước giặc cùng ta dàn trận thì dễ, chứ bây giờ tướng giặc võ công cao, quân sĩ tinh luyện, chúng nhất quyết thủ trong thành làm sao mà đánh vào được. Trước đây Đại tư-mã đã cùng anh em chúng tôi đánh bao phen, chỉ chết uổng sĩ tốt mà thôi. Bây giờ quân sư bắt phải vào thành giờ Tý đêm nay, thì thực không thể nào được.

Trưng Nhị nhìn Đặng Vũ cười:

– Đại hội quân ở Quế-lâm, quân sư Phương-Dung đã định sẵn kế sách. Chúng ta đánh bại các cao thủ bên giặc, cần thắng một trận để cho giặc mất nhuệ khí, bấy giờ sẽ đánh thành. Hai vấn đề đầu tiên, chúng ta đã thành công. Bây giờ đánh thành không khó khăn gì nữa. Trước kia, các vị thua vì binh sĩ chết không được bổ sung, khí thế giặc mạnh. Bây giờ ngược lại khí thế ta mạnh, binh giặc không được bổ sung.

Nàng cầm binh phù nói:

– Nữ tướng Phật-Nguyệt, chỉ huy toàn bộ hải quân đánh chiếm cảng Độ-hà. Nữ tướng Hồ Đề cho Phật-Nguyệt mượn đội Thần-ưng. Khi hai bên dàn quân đánh nhau, cho Thần-ưng xuất trận làm địch phải rối loạn. Hải-quân giặc bỏ chạy không cần đuổi xa, đến bên Cổ-lăng thì đóng lại, bao vây mặt sau thành Bạch-đế.

Hồ Đề hỏi:

– Thần-ưng của tôi có một Lữ, gồm 600 con, chia thành từng Lượng 25 con. Cho mượn hết hay chỉ mượn một vài Tốt? Sau khi đuổi giặc thì trả về hay vẫn mang theo bao vây thành Bạch-đế?

Trưng Nhị đáp:

– Đánh nhau dưới nước, vũ khí quan trọng là cung tên. Khi Phật-Nguyệt dùng cung tên bắn giặc tất nhiên giặc bắn lại. Nếu ta dùng Thần-ưng từ trên bổ xuống đánh, địch phải dùng cung tên bắn Thần-ưng, như vậy hàng ngũ rối loạn. Khi đến Cổ-lăng, Thần-ưng vẫn được giữ để còn đánh thủy quân giặc nữa.

Phật-Nguyệt hỏi:

– Đô-đốc Lưu Long hiện coi thủy quân, vậy tôi là chủ tướng hay Lưu Long là chủ tướng?

Đặng Vũ đáp:

– Cô nương Phật-Nguyệt làm chủ tướng.

Trưng Nhị tiếp:

– Kiến-oai đại tướng-quân Cảnh Yểm mang hai vạn quân đánh cửa Bắc, cần giữ vững trận tuyến không cho giặc chạy ra. Xin sư bá Lại Thế-Cường theo giúp Cảnh tướng-quân.

Lại Thế-Cường hỏi:

– Quân mã của Kiến-oai đại tướng-quân gồm ba vạn. Đạo quân Nhật-nam của tôi gồm bốn vạn Bộ-binh, bẩy nghìn năm trăm kỵ binh, nếu đem cả đi thì e rằng nhiều quá chăng? Còn mang đi một phần thì mang quân của ai?

Trưng Nhị nói:

– Binh lính của Cảnh đại tướng-quân đánh nhiều trận đã mệt mỏi, cho họ nghỉ dưỡng sức. Sư bá mang quân Nhật-nam xuất trận.

Nàng tiếp:

– Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ mang hai vạn quân đánh cửa Nam. Nếu thấy giặc bỏ chạy, thì lùi lại cho chúng thoát khỏi thành. Sư muội Lê Chân mang theo một trăm thớt voi giúp Mã tướng-quân. Cứ thẳng đường đuổi không sợ phục binh, vì giặc trong thành Bạch-đế không dám xuất ra cứu đâu, nếu chúng xuất ra, sẽ bị thủy-quân ở Cổ-lăng đánh úp thành.

– Chinh-lỗ đại tướng-quân Tế Tuân mang hai vạn quân phục ở Vu-sơn, khi giặc bỏ thành chạy, chờ một nửa đi qua hãy đổ ra đánh. Tuy bắt không được tướng giặc, nhưng cũng bắt được một số quân. Sau đó tiến vào cửa Tây thành. Xin sư thúc Trần Năng theo giúp Mã tướng-quân.

– Chúng ta bỏ trống cửa Tây cho giặc chạy về thành Bạch-đế.

– Đặng đại-tư-mã, Sầm đại tướng-quân đánh vào cửa Đông làm nỗ lực chính. Xin Đặng đại tư-mã cho binh sĩ chuẩn bị thang, cung nỏ sẵn.

Ngừng một lát, nàng nói:

– Tôi nhắc lại là cung nỏ với đoản đao phải sẵn sàng. Chúng ta đánh cửa Đông gấp, giặc sẽ lên thành dùng cung nỏ bắn xuống và lăn gỗ đá. Nữ tướng Hồ Đề chuẩn bị đội Thần-phong. Khi pháo lệnh nổ, cho đội Thần-phong đánh quân trên thành. Pháo lệnh đó cũng là lệnh cho quân sĩ bắc thang lên. Chúng ta có một phần tư giờ để lên thành mà thôi. Vì chậm trễ, giặc đem lửa đốt, Thần-phong bỏ chạy, tất ta gặp nguy. Binh sĩ lên mặt thành rồi cung nỏ bắn lùi giặc, mở cửa cho đại-quân tiến vào. Đặng đại tư-mã, Chinh-di đại tướng-quân đánh vào giữa thành. Phấn-oai đại tướng-quân Lưu Hân với tôi đánh sang cửa Nam. Hổ-oai đại tướng-quân Phùng Tuấn và sư tỷ Hồ Đề đánh sang cửa Bắc. Bấy giờ giặc bỏ thành chạy, chúng ta không cần đuổi theo, vì đã có phục binh chặn đường bắt sống.

Trước đây khi hội quân ở Quế-lâm, Trưng Nhị và Hồ Đề có hứa sẽ làm cho quân trên thành tê liệt trong vòng nửa giờ, giúp Đặng Vũ đánh thành. Bấy giờ Đặng Vũ hỏi rằng đạo quân mà Hồ Đề làm tê liệt quân trên thành là quân gì? Hồ Đề không trả lời, nàng sợ lộ bị giặc biết, giặc sẽ có cách chống. Bây giờ Đặng Vũ mới biết là đội ong, nếu địch quân biết trước sẽ dùng lửa chống lại, e khó thành công.

Các đạo quân lục tục lên đường. Đặng Vũ với Trưng Nhị vừa lên ngựa đi được một lát, chưa tới thành Xuyên-khẩu có thám mã về báo:

– Thủy-quân giặc bỏ chạy, nữ tướng Phật-Nguyệt đang cho quân đuổi theo.

Nguyên Phật-Nguyệt là người cơ mưu, võ công cao cường. Lúc nàng đến cảng thủy quân thì Lưu Long, Đoàn Chí đã chờ sẵn. Nàng ra lệnh cho Lưu Long dàn chiến thuyền, khua chiêng trống tiến lên đánh quân Thục. Thủy quân Thục đông hơn Hán lại đóng ở thượng-lưu sông, tấn công như vũ bão. Phật-Nguyệt là đệ tử yêu của Nguyễn Phan, khinh công của nàng ngang với Đào Kỳ, Phương-Dung. Nàng chỉ nhún mình mấy cái đã leo đến đỉnh cột soái thuyền quan sát. Thủy quân Thục chia làm bốn cánh, dàn ra thành đội hình như một tam giác. Phía trước ba đội: Trung quân, tả, hữu. Phiá sau là đội trừ bị. Mỗi đội phía trước có một soái thuyền rất lớn, đội phía sau có năm soái thuyền, một số thuyền nhỏ lui tới tiếp tế cho các chiến thuyền phía trước. Phật-Nguyệt ít đọc binh thư, chưa biết gì về thủy chiến, hơi bỡ ngỡ. Nàng nhìn bên Hán cũng dàn trận tương tự. Là người thông minh, nàng nghĩ:

– Hai bên bắn nhau thế này mà mình ở dưới hạ lưu, địch thượng lưu thì mình yếu thế. Vậy phải cho hai bên cận chiến, thế thượng lưu của địch sẽ mất đi.

Nàng gọi Sún Lé, người chỉ huy Thần-ưng hỏi:

– Sư đệ, nếu hai bên đánh lẫn nhau, Thần-ưng có cách nào phân biệt giữa ta và địch không?

Sún Lé cầm đầu Tây-vu Thiên-ưng, tính tình tinh nghịch hơn cả Hồ Đề, nhiều mưu lắm mẹo, nó nghe Phật-Nguyệt hỏi thế thì gật đầu:

– Có chứ, quân Hán mặc quần áo xanh, quân Thục mặc quần áo sậm. Kể từ lúc giáp chiến đến giờ, Thần-ưng đã phân biệt được giữa ta và địch. Tùy chị muốn, em sẽ ra lệnh cho Thần-ưng chỉ tấn công những ai mặc quần áo mầu nâu sậm thôi.

Phật-Nguyệt gọi Lâu-thuyền tướng-quân Đoàn Chí và đô-đốc Lưu Long lại dặn:

– Bây giờ thế này, hai tướng-quân cho thuyền xuôi theo dòng nước, ryt lui nhưng vẫn giữ vững đội hình. Như vậy mình không phải xuất lực chèo. Giặc đuổi theo thì mình vẫn cứ lui từ từ, cho quân bắn cầm chừng. Cố giữ đôi bên khoản g cách một tầm tên. Chúng ta sẽ cho ba soái thuyền vọt về trước. Lưu tướng-quân đánh bên phải, tôi đánh vào giữa. Đoàn tướng-quân đánh vào bên trái. Khi thấy soái kỳ của giặc bị tôi chặt gãy, sư đệ Sún Lé cho Thần-ưng bay lên tấn công. Đợi hàng ngũ địch loạn mới cho quân đuổi theo.

Nàng dặn Sún Lé:

– Sư đệ có 600 Thần-ưng, chia thành 6 tốt phải không?

– Không em để một tốt cho sư tỷ Hồ Đề dùng. Em mang theo 5 tốt, mỗi tốt 100. Một tốt chia làm 4 lượng. Mỗi lượng 25 Thần-ưng.

– Em có mấy người điều khiển Thần-ưng?

– Tất cả có 5 người với em nữa là sáu. Chúng em đều nhỏ tuổi cả. Lớn nhất 16, nhỏ nhất 14.

– Vậy thì tốt lắm. Em trấn nhậm trung ương. Đứng trên soái hạm chỉ huy. Đầu tiên cho bốn tốt xuất trận. Một tốt đánh vào phải, một tốt đánh vào trái, một đánh vào giữa, một đánh vào hậu quân địch. Còn một tốt cho bay lượn trên không làm trừ bị. Còn đánh cách nào thì tùy ý em.

Sún Lé cười như nắc nẻ:

– Có cho các tướng Thục ăn phân chim không?

Phật-Nguyệt là đệ tử của Nguyễn Phan, nên tính tình hiền lành, nhu mì ít tinh nghịch như Hồ Đề, Trần Năng, nàng tát yêu Sún Lé:

– Không cần, hôm trước tướng bên giặc oai phong, cho Thần-ưng thả phân xuống, làm mất thể diện chúng. Hôm nay là trận đánh sinh tử, cần cho tấn công cào mặt, móc mắt.

Sún Lé hỏi:

– Có bằng này lối đánh: Một là cho Thần-ưng bất thần tấn công, nhào xuống mổ mắt, cào mặt mấy cái rồi bay lên không. Địch bị thương, tất ngửa mặt lên trời theo dõi. Em cho chim bay lượn đe dọa. Thấy chúng cúi xuống, em cho Thần-ưng nhào xuống đánh. Chúng ngửa lên thì cho Thần-ưng bay lượn đe dọa, làm chúng không thể tấn công về trước. Còn lối đánh thứ nhì, thì cho từng lượng Thần-ưng một từ trên cao nhào xuống đánh, mổ mắt cào mặt, rồi lại bay lên. Tiếp theo lượng thứ nhì, cứ như vậy trên trời mỗi cánh quân đều có ba lượng, một lượng tấn công. Chị thích lối nào?

Lưu Long nói:

– Nên đánh lối thứ nhì hay hơn. Khi em cho Thần-ưng đánh, thì bọn tôi chèo thuyền lên tấn công, địch phải thua.

Phật-Nguyệt chỉ về phía trước nói:

– Em thử cho tấn công đội thứ nhì chị xem nào?

Sún Lé cầm tù-và thổi một hơi dài, lập tức có năm tiếng tù-và của những Sún chỉ huy Thần-ưng ở các thuyền khác đáp lại. Sún Lé lại cầm tù-và thổi liền bẩy tiếng to nhỏ khác nhau. Lập tức soái thuyền phía sau có một thiếu niên khác nhỏ tuổi hơn Sún Lé một chút, leo lên cột buồm tay cầm năm lá cờ xanh, vàng, đỏ, trắng và đen phất, lát sau có tiếng kêu ré trên không của loài chim, rồi một đám Thần-ưng từ xa bay tới chia làm 5 đội, mỗi đội 25 con trông rất đều đặn. Đàn Thần-ưng bay vòng vòng trên trời như thao diễn.

Sún Lé nói với Phật-Nguyệt:

– Thằng Sún Lùn đang thao diễn dấy! Em cho lệnh tấn công đây.

Nói rồi nó cầm tù-và thổi ba tiếng dài, lập tức Sún Lùn cầm cờ xanh phất một cái, đội hình Thần-ưng đi đầu kêu lên đồng loạt, từ trên cao bổ xuống chiến thuyền Thục, mỗi con tấn công một thủy thủ. Đám thủy thủ bị tấn công bất ngờ buông cung tên để gạt Thần-ưng, thì Thần-ưng lại bay bổng trên cao. Thế là thủy thủ trên một chiến thuyền Thục bị thương gần hết, giữa lúc đang luống cuống thủy quân Hán, bắn ngã gục hết rồi nhảy vọt sang chiếm lấy.

Phật-Nguyệt bảo Sún Lé:

– Em cho tấn công vào tất cả các chiến thuyền phía phải một lượt.

Sún Lé cầm tù-và thổi năm hơi. Lập tức Sún Lùn phát cờ liên tiếp. Đoàn Thần-ưng ré đồng loạt, từ trên cao bổ xuống. Một trăm Thần-ưng tấn công vào bốn chiến thuyền, lại bay vọt lên cao. Thủy thủ Hán thích quá, bắn tên rào rào, nhảy sang cướp chiến thuyền địch.

Bên Thục hỗn loạn vì mất năm chiến thuyền một lúc. Hậu quân chuyển động, rồi các chiến thuyền từ từ rút lui. Phật-Nguyệt chỉ một soái thuyền bảo Sún Lùn:

– Em dùng Thần-ưng tấn công soái thuyền kia đi.

Sún Lùn cầm tù-và thổi. Lập tức đoàn Thần-ưng lại kêu lên vang trời. Bốn lượng mỗi lượng 25 con vụt xuống soái thuyền. Dưới soái thuyền đã chuẩn bị, dùng tên bắn một loạt, nhưng không trúng con nào. Bọn thủy thủ dùng dao chém ngược trở lên đồng loạt, hơn 10 Thần-ưng chết văng dưới sàn. Sún Lùn cầm cờ phất ba cái, tức thì số Thần-ưng còn lại đồng loạt lao xuống tấn công. Thủy thủ Thục mải đánh nhau với Thần-ưng, thì soái thuyền Lưu Long đã đuổi kịp, Lưu Long nhảy vọt sang trước cùng quân Hán đánh nhau với Thục. Dù trên soái thuyền Thục, hết trên trăm người bị thương, số còn lại đến hơn 300 đồng chống trả. Phật-Nguyệt thấy cảnh hỗn độn bảo Sún Lé:

– Không cần chị ra lệnh, chỗ nào có quân Thục, em ra lệnh tấn công thực gấp.

Sún Lé cầm tù-và thổi lên liên tiếp. Trên các chiến thuyền khác đám Sún đồng phất cờ. Thần-ưng lao vùn vụt tấn công. Hàng ngũ Thục quân náo loạn cả lên, chiến thuyền Hán được dịp tràn đến bắt.

Binh Thục đang hỗn loạn, thì viên đô-đốc chỉ huy hạm đội nhận ra người chỉ huy đoàn Thần-ưng là Sún Lé, y nói với tên cận vệ mấy câu. Người này phất tay ra hiệu, mười tên thủy thủ võ công cao cường theo y, tấn công đồng loạt binh Hán, rồi nhảy sang thuyền có Sún Lé. Võ công 11 người này cực cao, chỉ mấy chiêu chúng đã chiếm được chiến thuyền. Một trong bọn họ đã nhảy tới chụp Sún Lé. Sún Lé đã chuẩn bị từ trước, nó cúi đầu húc vào bụng tên này. Y ngẩn người ra, vì trên đời này khi bị tấn công, thì người ta nhảy lùi lại tránh, chứ có ai húc đầu vào đối thủ đâu. Y đưa tay túm Sún Lé, nhấc lên định trói lại thì cảm thấy bàn tay đau nhói. Y nhìn kỹ thì ớn da gà, vội buông Sún Lé ra, vì trên mu bàn tay y có đến năm con bò-cạp. Y đạp chết bò-cạp thì mu bàn tay sưng lên. Y biết phải bắt cho được Sún Lé để lấy thuốc giải độc. Nếu không chỉ trong khoảnh khắc, nọc bò-cạp chạy vào tim thì hết phương cứu chữa.

Y nhặt đao chém liên tiếp mười chiêu, giết 10 thủy thủ Hán. Khi y quay lại tìm, thì Sún Lé đã leo lên chót vót cột buồm, thè lưỡi chế nhạo y.

Nguyên Lục Sún là 6 đứa trẻ mồ côi. Cha mẹ chúng bị người Hán bắt giết. Hồ Đề đem về nuôi nấng dạy dỗ. Chúng sống với thú rừng, leo cây nhảy nhót như khỉ đã quen. Y chỉ chuyền mấy cái đã lên đến đỉnh cột buồm, đứng điều khiển Thần-ưng.

Bọn 11 cao thủ chém hầu hết quân Hán trên thuyền Sún Lé, nhưng không làm cách nào bắt được nó. Tên trưởng toán lo sợ cuống cuồng vì tay y tím bầm sưng lớn. Y biết nọc độc đang chạy lên cánh tay, chậm thì chết, bèn gọi lớn:

– Chú nhỏ kia mau đưa thuốc giải độc bò-cạp cho ta, nếu không, ta sẽ chặt cột buồm thì chú rơi xuống là hết đời.

Sún Lé cười khì khì, tính tinh nghịch nổi dậy. Nó tụt quần đái xuống đầu bọn thủy thủ Thục. Bọn này vội nhảy tránh, tên cầm đầu phất tay:

– Hạ cột buồm xuống!

Cả mười tên xúm vào dùng dao chặt cột buồm. Sún Lé thấy nguy, vội cầm tù-và thổi, móc trong túi ra cây cờ vàng phất lia lịa xuống dưới chân.

Từ xa một đoàn Thần-ưng ré lên, bay đến. Chúng thấy chúa tướng lâm nguy, đồng loạt tấn công bọn thủy thụ.. Bọn này là những cao thủ võ công đâu có dở, chúng vung đao chém. Sáu Thần-ưng bị trúng đao rơi xuống sàn. Sún Lé sợ Thần-ưng tử trận nhiều. Nó cầm cờ ra lệnh đoàn Thần-ưng không tấn công nữa, từ trên bổ xuống gần đầu quân địch lại vọt lên. Bọn thủy thủ không dám chặt cột buồm, ngửa mặt lên trời, phòng Thần-ưng tấn công.

Trong khi đó gần 500 Thần-ưng như những vì sao xẹt trên trời, lao vào các chiến thuyền khác. Quân Hán được dịp tiến đánh. Một khắc sau bên Thục cho lệnh rút lui, chiến thuyền Hán cho lệnh đuổi theo ráo riết. Phật-Nguyệt thấy một thuyền Hán không người chèo lái, trên cột buồm có Sún Lé phất cờ điều khiển Thần-ưng đánh 11 thủy thủ Thục, nàng thất kinh, tự mắng:

– Mình thật sơ ý, mải lo tấn công, quên mất một chiến thuyền Hán bị cao thủ Thục đánh chiếm, trên đó có Sún Lé.

Khi hai thuyền gần nhau, nàng nhún mình một cái, nhảy qua chiến thuyền kia kêu lớn:

– Sún Lé! Có chị đây đừng sợ!

Nàng lia kiếm, tên thủy thủ Thục vung đao đỡ. Choang một tiếng, Phật-Nguyệt thấy tay tê rần, thì biết đây là một cao thủ. Nàng nhớ lời sư phụ dặn:

– Kiếm pháp Long-biên lấy thần tốc làm căn bản tuyệt đối, không nên chạm nhau với vũ khí địch.

Nàng thu kiếm về ánh thép chớp lên, một cái đầu thủy thủ rơi xuống. Mười tên thủy thủ reo lên tấn công Phật-Nguyệt. Nàng đảo kiếm một lần nữa, hai tên ôm ngực ngã xuống. Tám tên đang ngơ ngác, thì kiếm lại vung lên, nàng đã đâm bốn tên ngã gục. Bốn tên còn lại la lên một tiếng, nhảy xuống sông biến mất.

Sún Lé bây giờ mới thoăn thoắt tuột xuống sàn thuyền. Phật-Nguyệt bảo nó:

– Em cho lệnh ngừng tấn công chỉ bay theo dọa địch mà thôi.

Sún Lé cầm tù-và thổi một hơi. Chỉ lát sau Thần-ưng bay thành năm đoàn, lượn vòng tròn trên trời rất đẹp mắt.

Phật-Nguyệt ra lệnh đuổi theo rất gấp. Nàng đứng đầu một mũi thuyền, bên Thục bắn tên sang, nàng dùng kiếm pháp thần thông đánh dạt ra hết. Khi thuyền nàng đã đuổi kịp thuyền phó đô-đốc đi cản hậu. Nàng nhảy vọt sang lia một kiếm, đầu y rụng xuống. Nàng vung kiếm lên hơn 30 chiêu, hơn ba mươi cái đầu rụng xuống. Cứ thế, nàng nhảy từ thuyền này sang thuyền khác.

Thủy quân Thục bắn nhiều quá, hết tên, chỉ còn nước bỏ chạy. Khi đuổi đến Cổ-lăng, bên Hán bắt được trên trăm chiến thuyền Thục. Phật-Nguyệt cho thu quân về bến Cổ-lăng, chiếm các cảng Vân-dương, Văn-giang.

Đặng Vũ nghe tin Phật-Nguyệt đuổi thủy quân Thục thì mừng lắm. Y cho lệnh vây Xuyên-khẩu rất gấp. Quân trong thành thi nhau bắn tên, lăn đá xuống. Trưng Nhị đứng bên Hồ Đề hỏi:

– Sư muội chuẩn bị xong chưa?

Hồ Đề cười:

– Lúc nào mà chả xong.

Trưng Nhị sai đốt pháo lệnh. Quân ngoài ải tiến vào đến chân thành.

Hồ Đề quay lại ra hiệu. Sáu thiếu nữ xinh tươi, cỡi ngựa dàn phía sau nàng, cầm ống tre thổi lên những tiếng nhạc du dương. Thì phía sau năm cái xe lớn có hàng triệu con ong bay rợp trời. Chúng chia làm sáu đội khác nhau, tấn công quân trên thành. Quân sĩ trên thành bị ong đốt bất ngờ, ngã lăn xuống dưới hoặc ôm đầu bỏ chạy. Lập tức quân Hán bắc thang leo lên. Tới mặt thành, họ dùng cung tên bắn vào quân bên trong. Hồ Đề vẫy tay ra hiệu, Lục-phong nữ chỉ huy Thần-phong, cầm ống tre thổi lên. Thần-phong là là bay trở về xe đậu phía sau trận.

Quân Hán trèo lên mặt thành như kiến, chỉ một lát sau cổng thành mở. Đặng Vũ phi ngựa vào trước, sau đó đến Hồ Đề, Trưng Nhị.

Hồ Đề chỉ huy đội quân đánh sang phía Bắc gặp Vũ Chu đang chỉ huy quân chống cự. Y múa đao chém nàng. Hồ Đề tự biết mình không phải là đối thủ của y, vội giật cương ngựa tránh né. Vũ Chu từ mình ngựa lao vút trên cao chụp bắt. Hồ Đề thất kinh, rút kiếm chém. Y không coi nàng vào đâu, y xuyên tay qua kiếm chụp cổ nàng. Hồ Đề kinh hoàng vội bỏ ngựa lăn xuống đất. Vũ Chu đáp trên mình ngựa, phóng một kiếm vào ngực Hồ Đề. Nàng thấy bên cạnh đó có một cây vội leo lên. Nàng ở vùng núi lâu năm, leo cây nhanh như vượn. Vũ Chu vận sức đánh một chưởng, cây rung động thực mạnh. Vừa lúc đó đám đệ tử Tây-vu tới nơi, người thì quăng trăn, người ném rắn ra. Vũ Chu hoảng hốt bỏ chạy. Hồ Đề thổi còi gọi ong. Ong từ ngoài thành bay vào. Nàng cho Thần-phong bay là là rượt theo binh Thục tới cửa Tây mới ngừng lại.

Hồ Đề đủng đỉnh đi vào tới giữa thành gặp Đặng Vũ với Trưng Nhị. Nàng kể lại trận đánh kinh khủng vừa rồi cho hai người nghe. Trưng Nhị dặn:

– Từ nay em phải cẩn thận chớ có khinh địch như vậy nữa. Đi đâu cũng mang theo đám sư đệ và đội Thần-phong theo đề phòng.

Trưng Nhị kiểm điểm lại, hàng quân trên một vạn, kho tàng, lương thảo đầy ăm ắp. Đặng Vũ sai mở cửa thành cho các đoàn quân phía ngoài vào. Tổng hah dinh của Đặng Vũ cũng di chuyển vào thành.

Trưng Nhị gọi Sầm Bành, Mã Vũ, Hồ Đề:

– Phiền các vị đem một đội Thiết-kỵ, một đội Thần-tượng ra tiếp viện Trần Năng. Vì ta e nếu Trần Năng không địch lại Vũ Chu và Công-tôn Thiệu thì nguy to.

Ba người vọt lên ngựa đi liền. Đuổi theo một quãng thấy quân Hán đang giao chiến với quân Thục. Tướng Thục quả nhiên là Vũ Chu đang tả xung hữu đột đánh cản hậu. Còn Trần Năng đứng trên đồi cao, cầm cờ chỉ huy. Sầm Bành chỉ cho Mã Vũ, nói:

– Chúng mình học binh pháp từ nhỏ đánh đư trăm trận đã đành. Còn thiếu nữ này không biết học binh pháp từ bao giờ, mà tài chỉ huy không thua gì bọn mình.

Vũ Chu tả xung hữu đột, đi đến đâu quân Hán dạt ra đến đó. Mồ hôi ướt đẫm chiến bào, người y đã mệt nhoài. Nếu cứ như thế này thì chỉ một lát nữa, y kiệt lực chết mất. Y ngẩng mặt nhìn lên sườn đồi thấy có nữ tướng cầm cờ đỏ phất ra hiệu cho quân Hán vây y. Bất giác y tỉnh ngộ:

– Thì ra nữ tướng này đang chỉ huy quân vây ta. Ta phải giết thị mới mong thoát chết.

Y rút kiếm chém xả mấy nhát, vòng vây dãn ra. Y nhảy nhót mấy cái lên đỉnh đồi, vung chưởng đánh Trần Năng liền. Trần Năng vận sức chống lại. Bùng một tiếng, nàng cảm thấy lồng ngực muốn nổ tung ra, tai kêu vo vo. Biết gặp đối thủ, nàng hít hơi một cái, nàng phát chiêu Ngưu nhập thanh điền trong Phục-ngưu thần chưởng. Vũ Chu trả một chiêu vào đầu Trần Năng. Y tưởng với chưởng đó Trần Năng sẽ tan xương nát thịt. Trần Năng biết nguy hiểm. Khi rời Lĩnh-nam, sư phụ có dặn nàng. Nếu gặp đối thủ dùng sức dương-cương hùng mạnh thì vận khí trở về Đốc-mạch, rồi phát lực ra huyệt Trung-xung ở đầu ngón tay giữa, rồi biến thành chỉ tấn công. Chỉ này ông với Đào Kỳ vừa mới phát minh ra.

Trần Năng thấy chưởng chụp xuống đầu, nàng xuống đinh tấn, chĩa ngón tay chỏ xuyên vào chưởng của Vũ Chu. Vũ Chu cảm thấy một luồng lực đạo xuyên qua chưởng lực chạy vào người, ngực y đau nhói lên. Y nhăn mặt lui lại. Còn Trần Năng bị chưởng của y đánh bay vọt lại phía sau.

Sầm Bành, Mã Vũ thấy chiêu thức Trần Năng kỳ diệu, họ chưa muốn nhập cuộc, đứng ngoài quan sát.

Vũ Chu lại phát chưởng tấn công. Trần Năng hít hơi, vận sức phóng chỉ ra huyệt Thiếu-trạch ở đầu ngón tay út. Véo một cái, chỉ xuyên vào giữa chưởng của Vũ Chu, cả hai cùng lui lại.

Quân sĩ hai bên dãn ra. Đúng ra với công lực của Trần Năng không thể nào thắng Vũ Chu. Nhưng một là y hoảng hốt vì bị vây, hai là Lĩnh-nam chỉ pháp quá tinh diệu, nên nàng mới chống nổi. Đấu đến chiêu thứ năm, bấy giờ Trần Năng đã bắt đầu thấm mệt. Cứ mỗi chiêu, nàng phải lui lại hai bước. Vũ Chu biết thế, vận sức đánh ra một chiêu cực kỳ thâm hậu. Trần Năng luống cuống phát bừa một chiên, đó là chiêu dương-cương Hải triều lãng đãng của phái Cửu-chân. Chiêu này Đào Kỳ đã dạy nàng và Hùng Bảo. Chưởng phong ào ào phát ra. Vũ Chu thấy chưởng kỳ lạ vội phất chiêu đỡ. Bùng một tiếng, cả hai lùi lại. Trần Năng chỉ hơi khó chịu. Còn Vũ Chu thì lui lại hai bước. Chính Trần Năng cũng không ngờ được như thế, vì chưởng pháp Cửu-chân xưa nay vẫn thua Phục-ngưu thần chưởng. Thế mà nàng đấu với Vũ Chu sáu chưởng, chưởng nào cũng nàng cũng kém thế. Vậy mà bây giờ mới đánh có lớp thứ nhất của Cửu-chân chưởng, Vũ Chu đã lui lại hai bước, kém thế rõ ràng là tại sao?

Thực ra Phục-ngưu thần chưởng do Sơn-Tinh chế, sau được Vạn-tín hầu Lý Thân bổ sung cực kỳ tinh vi. Nhưng vì công lực của nàng với Vũ Chu cách nhau xa, nên nàng bị thua. Còn Cửu-chân chưởng là do Thục An-Dương vương và Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung chế, mục đích khắc chế võ công Trung-nguyên, nên Trần Năng đánh ra, thì khắc được chưởng của Vũ Chu. Vấn đề ngoắt ngoéo như vậy làm sao Trần Năng hiểu nổi? Nàng phóng một hơi phát lớp thứ nhì, lớp này mạnh gấp hai lần lớp trước, Vũ Chu vung chưởng đỡ. Bùng một tiếng, y thấy đầu óc choáng váng, vội hít hơi giữ thăng bằng thì lớp thứ ba tới mạnh gấp đôi lớp thứ nhì. Vũ Chu kinh hãi nhảy vọt lên trên cao, y rút kiếm chém Trần Năng. Trần Năng kinh hoảng rút kiếm đỡ. Choảng một tiếng, kiếm của nàng bay vọt lên cao. Vũ Chu chém kiếm thứ nhì, nàng vội lăn tròn dưới đất tránh. Vũ Chu chém thêm nhát nữa, thì thấy vật gì lạnh toát chui vào cổ. Y kinh hãi thò tay lấy ra, thì bị vật gì cắn vào ngón tay đau thấu tâm can. Y nhìn lại thì là một con rắn lục bằng ngón tay. Y bóp chết con rắn rồi thì tai, rồi mũi, mắt, đầu nhức không thể tưởng tượng được. Y nhìn lên một đàn ong đang xúm vào đốt. Y vội vung kiếm mở một con đường máu chạy biến vào rừng.

Trần Năng thoát nạn, đứng dậy thì thấy Hồ Đề đang cười thì biết là nàng đã cứu mình. Chị em mừng mừng tủi tủi nắm tay nhau, ra lệnh thu quân trở về thành. Trong khi Sầm Bành, Mã Vũ xua binh đuổi quân Thục.

Trưng Nhị truyền chư tướng vào nhận lệnh:

– Phép dùng binh, khi giặc thua cần đánh tiếp không cho chúng nghỉ. Chư quân dự trận Xuyên-khẩu được nghỉ ở hậu quân. Những vũ khí, lương thảo thu được của giặc sung vào làm của công. Còn trâu bò, của cải binh tướng giặc thì thưởng cho tướng sĩ hữu công.

Quân sĩ reo hò mừng rỡ. Vì họ theo Hán có hàng chục năm nay, mỗi khi thắng trận, chỉ được ăn một bữa khao quân hoặc thăng cấp là cùng. Còn những của cải thì tướng soái lấy hết có bao giờ đến lượt họ đâu. Hôm nay họ thấy vị nữ quân sư này ra lệnh thưởng cho họ tất cả, họ không reo mừng sao được.

Đặng Vũ nói:

– Bây giờ chúng ta đánh thành Bạch-đế. Thành này là kho tàng của Thục tại miền Đông. Thành cao, hào sâu khó đánh. Công-tôn Thiệu cất vàng bạc châu báu tại đây. Nếu ai vào thành trước tiên, những gì lấy được của Thiệu, ta thưởng cho hết, lại cho trấn thủ thành này.

Các tướng sĩ biết Công-tôn Thiệu là em Công-tôn Thuật, tước phong Trường-sa vương, làm đại nguyên-soái, tiền của giàu có súc tích. Nếu ai vào thành Bạch-đế trước tiên, sẽ thành đại-phú, sống đến mấy chục đời mới hết.

Trưng Nhị đáp:

– Thành Bạch-đế có bốn cửa, cửa Tây và Nam bị thủy quân vây hãm, chắc y không chạy qua ngã đó. Phía Đông thành thì đại-quân ta đóng, vậy chắc chắn y sẽ chạy về phía Bắc. Binh thư nói rằng: Giặc cùng khó đánh, chớ đuổi. Lại cũng nói: Một người liều mạng, mười người khôn địch. Chúng ta chỉ cần vây hãm làm cho binh tướng giặc kinh hoảng bỏ chạy, hơn là cố đánh thành, chết nhiều vô ích.

Đặng Vũ góp ý:

– Theo ý tôi chúng ta cần phải đánh thành gấp mới được, trễ thì chúng ta vào Thành-đô sau hai đạo kia mất.

Trưng Nhị thấy Đặng Vũ muốn đánh gấp, nàng nghĩ:

– Y muốn thì ta để y làm. Chết là chết quân Hán, chứ có chết người Việt đâu?

Nàng nói với Đặng Vũ:

– Đặng đại tư-mã đánh dư trăm trận, nhiều kinh nghiệm công thành, xin Tư-mã đích thân điều động mới được.

Đặng Vũ không lui được, y phân phối:

– Đô-đốc Lưu Long chỉ huy thủy quân đánh dọc theo sông Trường-giang, để giặc không chạy qua sông. Xin Phật-Nguyệt cô nương theo giúp Lưu đô-đốc, đề phòng Vũ Chu với Công-tôn Thiệu.

– Kiến-oai đại tướng-quân Cảnh Yểm đánh cửa Bắc. Xin phu nhân Trần Năng, cô nương Lê Chân theo giúp.

– Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ, đánh cửa Tây. Xin đại-hiệp Lại Thế-Cường theo trợ giúp.

– Chinh-lỗ đại tướng-quân Tế Tuân, anh hùng Lĩnh-nam cùng với chúng tôi công thành.

Đặng Vũ sai đốt pháo lệnh, chư quân reo hò, tiến đánh. Thành Bạch-đế là thành cổ, hào sâu, quân trong cố thủ, quân ngoài bắc thang leo lên. Quân trong thành dùng cung tên bắn xuống. Công thành hơn một ngày, binh lính chết hơn vạn người. Thây chất hàng chục đống lớn, mà vẫn không lấy được thành. Đặng Vũ đành cho lệnh rút ra xa bao vây.

Y thăng trướng hỏi Hồ Đề:

– Hồ cô nương. Cô nương có thể dùng Thần-phong giúp tôi một tay chăng? Binh sĩ chết nhiều quá rồi!

Hồ Đề đưa mắt nhìn Trưng Nhị hỏi ý kiến. Trưng Nhị nói:

– Thần-phong chỉ dùng được một lần mà thôi. Bây giờ dùng nữa, giặc dùng lửa đốt lên, Thần-phong phải bỏ chạy. Tuy nhiên tôi vẫn có kế đánh được thành.

Nàng quay lại hỏi Hồ Đề ; – Sư muội một Thần-ưng có thể mang được bao nhiêu cân?

Hồ Đề ngẩn người ra nói:

– Em chưa thử nhưng chúng thường bắt gà. Chúng tha một con gà đực lớn dễ như không.

Trưng Nhị gật đầu:

– Như vậy chúng có thể mang nổi bốn cân (2kg ngày nay). Em cho truyền tin gọi đoàn Thần-ưng về đây ngay, đêm mai chúng ta chiếm thành.

Hồ Đề nhìn Trưng Nhị tủm tỉm cười. Đặng Vũ ngẩn người ra. Tuy nhiên vì tự ái, y không hỏi Trưng Nhị sẽ dùng kế gì. Y vội cho ngựa lưu tinh đến cảng Cổ-lăng, xin Phật-Nguyệt cho đội Thần-ưng về trợ chiến. Sáng hôm sau bọn Sún Lé lục tục trình diện. Chúng là trẻ con, chẳng biết quân pháp, chẳng biết chủ soái là gì, miệng cứ bô bô kể cho Hồ Đề nghe đám Thần-ưng đánh giặc. Đặng Vũ nhìn sáu đứa trẻ mặt mũi lem luốc. Y bật cười hỏi Sún Lé:

– Em đã cho Thần-ưng ăn chưa?

Sún Lé cười:

– Chúng nó nhá thịt binh Thục no rồi không cần ăn nữa. Bây giờ tập họp chúng lại, không cho ăn. Mai chúng đói, xuất trận thì tuyệt hảo. Chúng sẽ đớp thịt binh Thục cho Đặng đại tư-mã coi.

Hồ Đề hỏi Sún Lé:

– Em có thể cho Thần-ưng tha một sợi dây lên cao, bảo chúng cột dây vào cây cột được không?

– Dễ quá, cứ để vật đó trước mắt, em thổi tù-và, chúng dùng chân cặp. Em thổi hai tiếng chúng bay lên. Em thổi hai tiếng lớn, một tiếng nhỏ, chúng bay vòng quanh, dây cuộn vào cột.

Trưng Nhị gật đầu:

– Đêm nay chúng ta dùng hỏa công đốt thành Bạch-đế. Chúng ta có 600 Thần-ưng, mỗi Thần-ưng một lần mang bốn cân, hai lần là tám cân, cộng chung có khoảng 4000 cân tẩm dầu, thả vào thành rồi dùng tên lửa bắn, thì thành Bạch-đế thành tro, thành than.

Sún Đen hỏi:

– Sư tỷ, vậy là đêm nay bọn em nướng chả Công-tôn Thiệu với Vũ Chu phải không? Phàm là anh hùng Lĩnh-nam làm việc gì cũng quang minh chính đại. Em muốn báo cho tướng sĩ trong thành biết trước. Hoặc họ đầu hàng, hoặc họ bị nướng chả. Chị bảo có nên không?

Đặng Vũ bế bổng Sún Đen lên:

– Bọn chúng ta là tướng soái đánh dư trăm trận mà thua một chú bé 16 tuổi. Sún Đen, em nói đúng đó, bây giờ ta cho thư-lại chép mấy trăm tờ hịch của Lĩnh-nam vương cho quân bắn vào thành, như vậy biết đâu quân Thục không sợ mà buông gươm đầu hàng.

Sún Lé tiếp:

– Đặng đại tư-mã muốn cho quân Thục sợ mà buông gươm đầu hàng ư? Dễ lắm, bây giờ Đặng đại tư-mã viết thêm một đoạn vào hịch của Nghiêm đại-ca rằng Thành-đô bị Đào đại-ca bao vây. Phía Bắc Ngô Hán tiến sát Thành-đô. Thành Bạch-đế bị cô lập vì mất Trường-giang. Thủy quân bỏ chạy, mặt Đông thì bị chúng ta bao vây. Tiến không được mà lui thì hết đất sống. Chi bằng đầu hàng được bảo toàn tính mệnh, hoặc muốn cũng được giữ nguyên quan chức.

Đặng Vũ há hốc mồm ra ngạc nhiên vì lời của Sún Lé. Nguyên bọn Lục Sún được Hồ Đề truyền thụ võ công, nhưng nàng chỉ coi bọn chúng là sư đệ, chứ không coi là đệ tử. Trong 72 động Tây-vu của nàng đa số toàn là người vùng rừng núi, nói năng tự do. Bọn Sún là những đứa trẻ thông minh, mỗi khi hội họp Hồ Đề cho chúng được phát biểu ý kiến như người lớn. Vì vậy mấy hôm nay chúng đã hiểu tình hình hai bên... Sún Lé, nó đưa ra những lời bàn mà không ai ngờ nổi.

Trưng Nhị di chuyển từ Giao-chỉ sang Quế-lâm cùng Hồ Đề, Lục Sún. Nàng biết Lục Sún có trí thông minh đặc biệt. Nàng khen:

– Ý kiến của Sún Đen thật tinh tế. Kế hoạch công thành của Đặng đại tư-mã vẫn giữ nguyên, thêm vào việc truyền hịch của Sún. Ta treo giải thưởng dù bên Thục hay bên Hán, người nào giết hoặc bắt được Công-tôn Thiệu sẽ được làm trấn thủ thành Bạch-đế. Tất cả của cải tịch thu được của y sẽ thưởng cho hết. Làm như vậy Công-tôn Thiệu sinh nghi ngờ mọi người, khiến y ăn không ngon, ngủ không yên.

Nàng cầm bút thảo:

Đại tư-mã nhà Đại-Hán truyền hịch cho các tướng sĩ trong Bạch-đế thành được rõ:

Lĩnh-nam vương lĩnh chức Tả tướng-quốc truyền hịch hứa rằng các ngươi đầu hàng thì được giữ nguyên chức tước. Ta là thuộc hạ của người sẽ tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh mà thi hành. Vậy nếu các người giết hoặc bắt được Công-tôn Thiệu ta cho làm trấn thủ thành Bạch-đế. Phàm những của cải tịch thu được của y, ta thưởng cho hết.

Các ngươi có biết không? Đạo quân Lĩnh-nam 30 vạn, đã chiếm Hán-nguyên, Giang-an và Long-xương. Đạo quân Tây-xuyên đã chiếm được Dương-bình quan, Ba-trung. Chỉ một sớm, một tối là tiến vào Thành-đô. Các ngươi ở trong thành Bạch-đế tiến thì không xong, lui thì không nẻo. Thủy-quân đã bỏ chạy, lương thảo ngày một cạn. Các ngươi mau mở cửa thành đầu hàng thì mạng sống chức tước được giữ, lương bổng không bị mất, gia đình được bảo trọng.

Đêm nay ta dùng Thần-ưng đốt thành nhưng chỉ để cảnh cáo các ngươi thôi. Neéu các ngươi không đầu hàng, đêm mai ta quyết sẽ nướng các ngươi thành than.

Vậy ta truyền hịch cho các ngươi rõ.

Đặng Vũ sai cầm bản thảo giao cho thư-lại chép. Đến trưa thì đã chép được trên ngàn tờ. Trưng Nhị hỏi Hồ Đề:

– Sư muội định cho Thần-ưng truyền hịch, hay dùng tên bắn vào thành.

Hồ Đề bảo Sún Lé:

– Em là thủ lĩnh của Lục Sún, cho em quyết định.

Sún Lé bảo Sún Cao:

– Này Sún Cao, Sún Cao cho một tốt Thần-ưng làm việc đi?

Sún Cao cầm tù-và thổi năm tiếng liền, một đám Thần-ưng đậu trên cây bay xuống trước mặt. Sún Cao cho mỗi Thần-ưng ngậm 10 tờ hịch, rồi hú hai tiếng chỉ lên thành Bạch-đế. Đoàn Thần-ưng vỗ cánh vút lên trời bay lượn. Sún Cao thổi bốn tiếng. Thần-ưng chia làm bốn toán lượn vòng tròn trên bốn cửa thành.

Sún Cao nói:

– Chị Hồ Đề, em cho Thần-ưng thả thật thấp cho chị coi nghe.

Nó thổi bốn tiếng nữa. Thần-ưng từ trên cao lao xuống thành, tới sát ngọn cây thì há mỏ cho những tờ hịch bay ra, rồi vút lên cao, hợp thành đàn. Sún Cao cầm tù và thổi mấy tiếng, cả đoàn 100 Thần-ưng bay về đậu trên cây cổ thụ trước trướng của Đặng Vũ. Trưng Nhị ra lệnh cho viên tướng phụ trách tiếp vận chuẩn bị 2000 bó cỏ, mỗi bó nặng bốn cân, tẩm dầu sẵn, đến giờ Dậu thì phải đủ. Nàng nói với Đặng Vũ:

– Chúng ta chuẩn bị đánh thành đêm nay.

Các tướng sĩ nghe Trưng Nhị nói vậy đều phấn khởi tinh thần, cho binh sĩ ăn uống, nghĩ ngơi, đợi đêm tấn công. Trưng Nhị thăng trướng truyền lệnh; – Trong thành hiện còn bốn vạn nhân mã, hai vạn Kỵ-binh tinh nhuệ. Nếu chúng ta bức quá giặc cùng đường thì phải chống cự, sĩ tốt bị thương nhiều. Chúng ta mở đường cho giặc chạy. Mục đích là chiếm thành tiêu hao nửa quân số là đủ. Suốt một giải phía Đông Ích-châu do Công-tôn Thiệu chỉ huy. Các ải Lương-bình, Phong-đô, Võ-lăng cũng còn trên bốn vạn người ngựa. Nếu chúng đồng kéo đến cứu thành Bạch-đế, thì không biết đến bao giờ chúng ta mới vào được Thành-đô. Đêm nay, làm sao chiếm được thành Bạch-đế, giết được Công-tôn Thiệu thì suốt một giải phía Đông-Thục giặc như rắn mất đầu không người chỉ huy, chúng ta tiến dễ dàng. Đánh thành, chúng ta mở cửa Tây và Bắc cho chúng chạy. Các đạo quân mai phục phải đợi cho giặc đi qua một nửa rồi mới đổ ra đánh cắt nửa sau.

Các tướng đồng cúi đầu khâm phục. Trưng Nhị tiếp:

– Công-tôn Thiệu, Vũ Chu võ công cao cường. Ở đây có Đặng đại tư-mã, Phiêu-kỵ đại tướng-quân Sầm Bành, Kiến-oai đại tướng-quân Cảnh Yểm, Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ và sư tỷ Phật-Nguyệt địch lại chúng. Vậy sư tỷ Phật-Nguyệt phụ trách bảo vệ Lục Sún đánh thành. Còn bốn vị phục binh từ Giang-khẩu đến Ôn-tuyền chặn đánh Công-tôn Thiệu, Vũ Chu. Sư đệ Hồ Hác chia đội Thần-tượng ra làm bốn theo trợ chiến với các vị tướng quân.

– Đại tướng-quân Lưu Long và Lâu-thuyền tướng quân Đoàn Chí đặt dưới quyền điều khiển của sư bá Lại Thế-Cường, dàn thủy quân từ Cổ-lăng đến Vân-dương, không cho giặc qua sông, cũng để ngăn đạo quân từ Võ-lăng lên cứu viện.

– Chinh-lỗ đại tướng-quân Tế Tuân điều quân đánh vào cửa Bắc thành. Nhớ đánh thật gấp không cho giặc ra khỏi thành. Sư thúc Trần Năng đi theo giúp Cảnh tướng-quân.

– Chinh-di đại tướng-quân Tang Cung đánh cửa Nam, có sư muội Lê Chân trợ lực, cần giữ chắc không cho giặc xuất thành.

– Phấn-oai đại tướng-quân Lưu Hân, sư muội Phật-Nguyệt, Lục Sún và tôi đánh cửa Đông.

– Trận này hoàn toàn nhờ sức sư muội Hồ Đề và Tây-vu Thiên-ưng lục tướng.

Trưng Nhị ngừng một lúc tiếp:

– Thành Bạch-đế cao 20 trượng. Hào phía ngoài rộng 15 trượng, sâu 2 trượng. Dưới hào đầy chông gai, rất khó đánh. Hôm qua chúng ta tổn thất gần một vạn người mà không thu được thắng lợi gì. Hôm nay phải tận dụng đoàn Thần-ưng và Thần-phong.

Hồ Đề lắc đầu:

– Lần trước chúng ta dùng Thần-phong đánh Xuyên-khẩu, giặc đã biết rồi nên đã chuẩn bị để chống lại. Chỉ cần đốt lên mấy cụm khói là đoàn Thần-phong bỏ chạy. Em nghĩ chúng ta không nên dùng tới nữa thì hơn.

Trưng Nhị lặng thinh suy nghĩ một lúc lâu mới nói:

– Như vậy chúng ta chỉ có thể dùng Thần-ưng đốt thành mà thôi. Thành Bạch-đế rất rộng, chúng ta đốt gì bây giờ? Và làm thế nào để đốt? Tôi nghĩ nên đốt kho lương thực, làm nát lòng quân Thục và đốt dinh Công-tôn Thiệu. Vậy chúng ta cho Thần-ưng thả cỏ tẩm dầu, rồi dùng tên lửa bắn lên là thành công.

Hồ Đề, Trần Năng, Lê Chân đồng gật đầu. Lại Thế-Cường là người kinh nghiệm nhiều, ông nói:

– Từ ngoài thành đến kho lương và dinh Công-tôn Thiệu khá xa, làm sao chúng ta bắn tên lửa tới được? Chỉ có cách duy nhất cho Thần-ưng ngậm cỏ đốt sẵn từ ngoài thành thả vào tốt hơn.

Sún Đen lắc đầu:

– Sư bá! Nếu đốt sẵn cỏ ở ngoài cho Thần-ưng thả vào, chỉ nửa đường là cỏ cháy lớn, tất Thần-ưng bị nướng chín mất.

Trưng Nhị hỏi Phật-Nguyệt:

– Khinh công phái Long-biên tuyệt vời, vậy sư muội có cách nào vào trong thành được không?

Phật-Nguyệt lắc đầu:

– Tôi chỉ có thể vọt lên cao được hơn hai trượng mà thôi. Mà thành cao tới 20 trượng, làm sao vào được?

Sún Lé nheo mắt cười:

– Giả như có một sợi dây từ trên thành thòng xuống, sư tỷ cần bao nhiêu cái chớp mắt có thể lên trên thành?

Mọi người bật cười vì lối dùng chớp mắt làm đơn vị đo thời gian đó của Sún Lé, nhưng ai cũng phải phục vì lối đo lường đó rất hợp với hoàn cảnh.

Phật-Nguyệt ngơ ngác:

– Chỉ cần mười chớp mắt là đủ. Mỗi chớp mắt tôi lên được 2 trượng, với 20 trượng tôi cần mười chớp mắt. Nhưng trên mặt thành quân sĩ lăn đá, bắn tên làm sao mà lên được. Trưng sư tỷ, sư tỷ định bảo tôi lên mặt thành làm gì?

Trưng Nhị đáp:

– Sau khi thả cỏ tẩm dầu vào thành, sư muội châm lửa đốt kho lương và dinh Công-tôn Thiệu. Công tác này cần người võ công cao. Hiện Trần Năng với sư muội có thể địch lại Thiệu và Vũ Chu, nên tôi mới nghĩ đến sư muội hoặc Trần Năng lọt vào thành.

Hồ Đề bảo Sún Đen:

– Lục-phong quận-chúa làm cho quân sĩ trên thành tê liệt trong 50 chớp mắt, như vậy sư tỷ có đủ thời giờ lên mặt thành. Sún Đen! Bây giờ em làm thế này: Một mặt em cho đội Thần-ưng bay lượn trên cao ngậm cỏ tẩm dầu sẵn. Chị cho đội Thần -phong bất thần tấn công vào cửa Đông, nếu quân Thục đốt lửa đuổi được Thần-phong thì cũng mất ít ra hàng trăm cái chớp mắt, ngọn lửa và khói mới đủ sức đuổi Thần-phong. Bấy giờ sư tỷ Phật-Nguyệt đã lên mặt thành rồi.

Nàng ngưng lại bảo Sún Lé:

– Em lựa lấy 10 Thần-ưng thực lớn chờ sẵn ở cửa Đông. Khi chị cho Thần-phong tấn công quân trên thành, thì lệnh cho Thần-ưng ngậm một đầu dây bay lên mặt thành quấn quanh cột cờ mấy vòng. Chị Phật-Nguyệt sẽ bám dây phi thân lên. Chỉ cần tới mặt thành là sư tỷ giết quân dễ như trở bàn tay. Ta cũng sẽ lên theo sư tỷ Phật-Nguyệt để cùng đốt kho lương thực. Khi kho cháy rồi, tất giặc đổ xô cứu hỏa. Chúng ta đi đốt dinh Công-tôn Thiệu.

Trưng Nhị dặn Sún Lé:

– Em nhớ khi thấy lửa trong thành bốc cao, lệnh cho Thần-ưng tiếp tục thả cỏ tẩm dầu xuống những nơi bốc cháy.

Sún Lé cười khúc khích, Hồ Đề quát:

– Đây là quân lệnh nếu em vô phép thì chị chặt đầu có im ngay không?

Sún Lé bụm miệng nói:

– Chị Trưng Nhị coi bọn em là thần thánh, nên em sướng, em cười mà cũng cấm sao? Này nhé Sún Lé cao gần trượng, thành cao hơn 20 trượng mà chị Trưng Nhị bảo em thấy chỗ nào cháy thì lệnh cho Thần-ưng thả cỏ khô. Chúng em có là thánh như Phù-Đổng Thiên-vương đâu mà nhìn xa được như vậy? Muốn như vậy, họa chăng một trong bọn em leo lên mặt thành chỉ huy Thần-ưng.

Trưng Nhị xoa đầu Sún Lé:

– Em nói đúng đó, chị sơ xuất quá. Vậy thế này: Sún Đen chỉ huy Thần-ưng thả dây trên mặt thành. Sún Cao, Sún Lùn, Sún Rỗ chỉ huy Thần-ưng thả cỏ ngoài mặt thành. Còn Sún Lé lên mặt thành với chị để chỉ huy Thần-ưng thả cỏ vào khu vực mình muốn. Sún Hô làm trừ bị.


Cửu Mộng Tiên Vực

Hồi (1-30)


<