Vay nóng Tima

Truyện:Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông - Hồi 46

Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông
Trọn bộ 50 hồi
Hồi 46: Dưới Cờ Bình Mông
5.00
(một lượt)


Hồi (1-50)

Siêu sale Lazada

Linh-Từ quốc mẫu hỏi Hưng-Đạo vương:

- Không biết Tiết-chế ra lệnh cho già này đem cung quyến đến vùng nào?

Hưng-Đạo vương đưa mắt nhìn Quốc-mẫu rồi nháy một cái. Quốc-mẫu hiểu ý vương là: Bí mật không thể nói ra lúc này.

Vương tiếp:

- Nhưng nếu như ta mở rộng đường cho giặc vào Thăng-long, thì chúng sẽ nghi ngờ. Vì vậy ta cần dàn quân dọc đường, đánh mấy trận tượng trưng. Sau khi thắng vài trận, Ngột-lương Hợp-thai cho rằng quân ta hèn nhát, ô hợp. Y thẳng tiến vào Thăng-long. Mông-cổ đã quen với chính sách tàn bạo, đi đến đâu chúng dùng bạo lực bắt bọn quan lại đầu hàng, bắt dân chúng cung ứng lương thảo, bằng không chúng sẽ cướp, giết cực kỳ tàn bạo. Thế nhưng, Đại-Việt ta khác. Muốn có lương thảo, chúng phải đánh chiếm các làng xã. Mà mỗi làng, xã của ta là một đồn. Quân của chúng sẽ chết rất nhiều, sẽ vất vả, mệt mỏi lắm mới chiếm được một xã, mà chưa chắc đã có lương. Trong khi đó, ta chia quân thành nhiều cánh nhỏ, ẩn trên đường từ Đại-lý về Thăng-long, chặn đánh các đội tiếp tế lương thực. Ta cầm cự, chờ khi trời nóng, quân, ngựa của giặc bị bệnh, lương thảo thiếu, bấy giờ ta phản công, thì chỉ một trận thì phá xong.

Vương ngừng lại, chỉ tay lên bản đồ Đại-Việt vẽ trên một tấm lụa, choán gần hết bức tường:

- Ta chia lực lượng làm ba. Một là đánh tiêu hao, hai là đánh trực diện, ba là phản công.

Vương đứng dậy hướng vào Khâm-Thiên đại vương:

- Trước hết là lực lượng tiêu hao sẽ do Khâm-Thiên vương, Nhân-Huệ vương, Vũ-Uy vương chỉ huy. Vũ-Uy vương thống lĩnh ba hiệu Tiền thánh-dực, Tả thánh dực, Hữu thánh dực, phạm vi là vùng biên giới cho tới Kinh-Bắc. Nhân-Huệ vương thống lĩnh ba hiệu Trung thánh dực, Thần-sách, Củng-thần, phạm vi là vùng Tây Thăng-long. Khâm-Thiên đại vương thống lĩnh ba hiệu Thiên-thuộc, Thiên-cương, Chương-thánh, phạm vi là vùng Đông, Nam Thăng-long.

Vũ-Uy vương hỏi:

- Lực-lượng đánh tiêu hao địch rất quan trọng. Vậy trong ba chúng tôi, ai là chúa tướng?

- Là Khâm-Thiên đại vương.

Khâm-Thiên đại vương hỏi:

- Nhiệm vụ chính của chúng tôi là gì?

- Khi giặc tới, thì phân tán thành từng đội, từng vệ, từng đạo ẩn vào các làng xã, bảo vệ dân, cùng tráng đinh chống giặc. Khi giặc đi, tập trung chiếm lại những vùng giặc đóng quân, đánh những đoàn do thám, những đoàn tiếp tế lương thực. Tùy tình hình, phá cầu, đặt chông, phục kích làm chậm bước tiến của giặc. Nhất là cung cấp lương thực cho các hiệu binh của ta lĩnh nhiệm vụ trực chiến và truy kích.

Nguyên-Phong hoàng đế ban chỉ:

- Hơn ba năm nay, Hưng-Đạo vương cùng các tướng súy Ngũ-yên huấn luyện từ hoàng nam, cho tơí binh địa phương, thiên tử binh về chiến thuật tiêu hao. Tuy vậy, có nhiều văn quan chưa biết về chiến thuật này. Vương nên tóm lược, giảng giải cho mọi người đều biết.

- Tuân chỉ.

Hưng-Đạo vương đưa mắt cho Hưng-Ninh vương. Hưng-Ninh vương đứng dậy giảng:

" Chiến thuật đánh tiêu hao, lấy căn bản là triều đình với dân cùng đồng tâm phá giặc. Địch đông hơn ta, mạnh hơn ta, tùy theo địa thế ta phân hiệu thành đạo (2400), vệ (800),), đô (80), Lượng (20) rồi ẩn vào các làng xã, dựa vào địa thế của làng-xã cùng dân chúng chống giặc. Nếu giặc mạnh quá, thì cùng dân chúng rút chạy sang làng khác. Khi giặc phân tán, ta tập trung thực nhanh, đánh chớp nhoáng, rồi lại phân tán. Chiến thuật này rất lợi hại, vì quân sống với dân, được dân cho ở trong nhà, không cần doanh trại. Được dân nuôi ăn, không phải tiếp tế lương thực. Thương binh có dân chăm sóc. Tử sĩ có dân mai táng. Tổn thất dùng hoàng nam bổ xung. Di chuyển nhẹ nhàng. Thông thuộc đường lối. Được dân báo cho tin tức giặc. Ta có thể tóm tắt chiến thuật này là: Biến đất nước thành một hồ nước. Giặc dùng con dao cắt đứt nước dễ dàng. Nhưng dao vừa cắt xong, thì nước trở lại như cũ".

Hưng-Đạo vương hướng vào Vũ-Uy vương:

- Võ công vương gia cao nhất trong hoàng tộc. Lâu nay, vương gia theo gương Quốc thượng phụ, thu nhặt các thiếu niên mồ côi, về dạy dỗ, thành lập một đạo võ sĩ mang tên Trấn-quốc. Không biết hiện do ai chỉ huy? Trong dịp này vương có mang theo không?

- Đội võ sĩ Trấn-quốc gồm toàn những thiếu niên từ 12 tới 20 tuổi. Võ công, tiễn thủ thì chúng ở mức trung bình. Nhưng chúng di chuyển, len lỏi, mưu mẹo không biết đâu mà lường. Người chỉ huy là Đô-thống Hoàng Vui.

Một võ quan dáng người nhỏ bé đứng dậy hành lễ rồi ngồi xuống. Có nhiều tiếng reo:

- Ái chà!

- Ối!

Cả triều thần cùng bật lên những tiếng vui mừng. Nguyên-Phong hoàng đế kinh ngạc hỏi:

- Vương nhi! Vui là người thế nào mà nghe nhắc đến tên, ai cũng reo lên vậy?

- Tâu phụ hoàng, Vui xuất thân từ trường Ngưu-binh ở Hoa-lư, mặt có trứng cá, thành ra trông như bị rỗ. Bạn hữu gọi là Vui-rỗ. Khi ở trong trường, từ học văn, tới luyện võ, Vui-rỗ chỉ ở bậc trung. Nhưng khi ra trường, giống như cá chậu được thả về biển Đông, văn tài của y phát xuất. Vì vậy tuy là võ quan, mà y trở thành danh sĩ vùng Thăng-long!

Thái-sư Trần Thủ-Độ thêm:

- Đẳng trật của y hiện là Đô-thống. Y lĩnh hai nhiệm vụ, một là thống lĩnh hiệu binh Hữu Thánh-dực. Hai là chỉ huy đội võ sĩ Trấn-quốc. Y là người đủ khả năng đối phó với Mông-cổ. Bởi như Hưng-Ninh vương chỉ có mưu thần, chước thánh, mà thiếu những quỷ kế, thiếu lối hành sự của bọn lưu manh dân dã. Còn Vui thì y có đủ, đúng như ta thường nói: Đi với Phật thì mặc áo cà sa. Đi với ma thì mặc áo giấy. Mưu kế của y không biết đâu mà lường.

Hưng-Đạo vương hài lòng nói với Vũ-Uy vương:

- Vậy khi bọn Mông-cổ nhập biên, vương gia dùng Đô-thống Hoàng Vui với đội Trấn-quốc quấy nhiễu làm cho chúng mất ngủ ít nhất hai đêm, lại chọc cho chúng tức đến điên người lên...Có như vậy, khả năng chiến đấu của chúng mới bị giảm.

Vũ-Uy vương cười hỏi Đô-thống Hoàng Vui:

- Vui đệ! Quốc kế, Hưng-Đạo vương vạch ra như vậy, thế đệ thi hành rasao?

- Thưa vương gia.

Vui đứng dậy trình: Gì chứ chuyện thần vơi bọn nhãi ranh thừa sức làm. Đầu tiên, khi chúng nhập biên, sau một ngày di chuyển mệt mỏi, chiều thần sẽ cho bọn nhỏ giả làm mục đồng, dẫn dụ chúng vào trong làng xã, rồi giết vài chục tên. Sau đó quấy nhiễu suốt đêm, không cho chúng ngủ. Hôm sau thần lại tiếp tục bầy chướng ngại trên đường đi, gây tức bực cho chúng, cuối cùng lừa cho chúng đóng quân qua đêm vào khu ven rừng cỏ khô Thảo-lâm. Đêm thần dùng Lôi-tiễn nã lên đầu chúng, nướng chả ít trăm tên. Thế là trọn ba đêm chúng không được ngủ. Lúc chúng tới Bình-lệ-nguyên thì người ngựa mệt mỏi bơ phờ, ta mới dễ thắng chúng.

Nguyên-Phong hoàng đế nhắc Hưng-Đạo vương:

- Bây giờ tới lực lượng phản công.

- Tâu, lực lượng này cần một tướng hết sức mẫn cán, trẫm tĩnh, bằng không dễ bị kỵ binh giặc đánh tan. Trong các tướng hiện diện, ngoài Hưng-Ninh vương không ai gánh nổi.

Hưng-Ninh vương đứng dậy nhận lệnh.

Hưng-Đạo vương tiếp:

- Hưng-Ninh vương thống lĩnh ba hiệu Tứ-thiên, Tứ-thần, Tứ-thánh. Nhiệm vụ chính là ém quân quanh Thăng-long, chờ đợi khi giặc đói vì không lương, bệnh vì thời khí, thì xuất hiện đánh như sét nổ, rồi đuổi bất kể ngày đêm, cho tơí biên giới thì thôi. Bây giờ tới lực lượng trực diện...

Vương đưa mắt nhìn các tướng Ngũ-yên:

- Lực lượng này có nhiệm vụ dụ địch. Phàm khi địch kiêu căng, thì ta phải giả ngu, giả dại để chúng mắc mưu. Mông-cổ là thứ binh kiêu khí vô cùng tận. Biết rằng dàn quân trực diện với chúng thì ta bị chúng dẹp ngay. Thế nhưng ta cũng phải dàn quân để chúng khinh thường. Ta sẽ dàn quân tại ba nơi. Một là tại Bình-lệ-nguyên, hai là Cụ-bản, ba là Phù-lỗ. Khi tiến quân vào nước ta, chắc chắn Ngột-lương Hợp-thai sẽ sai một trong ba tên Triệt Triệt Đô, A Truật, A Tan đi tiên phong. Võ công ba tên này thực không phải tầm thường. Vì thế tướng trấn thủ cần bốn điều kiện.

Một là dũng, tức võ công cực cao, để có thể đối trận với chúng.

Hai là trí, để có thể ứng phó với biến chuyển của trận thế.

Ba là mưu, để có thể lừa giặc.

Bốn là đảm, vì khi trấn tại đây thì lành ít, dữ nhiều.

Vương ngừng lại, nhìn cử tọa một lượt, chính khí người nào cũng tỏa ra hừng hực. Tất cả như đều muốn được lĩnh nhiệm vụ có đi, không về này. Vương hỏi:

- Có ai tình nguyện không?

Tất cả các tướng đồng loạt đứng dậy, dơ cao tay. Trong đó có cả Nguyên-Phong hoàng đế, Thái-sư Trần Thủ-Độ. Tổng cộng 28 người. Vương mỉm cười:

- Bệ hạ cũng như Quốc-phụ là tướng của các tướng, thì phải ngồi trong màn mà quyết thắng ngoài nghìn dặm, không thể ra trấn nhậm ở đầu mũi tên, ngọn giáo được.

Nhà vua tỏ ý không vui:

- Thái-tổ Mông-cổ là Thành-cát Tư-hãn, Thái-tông là Oa Khoát Đài từng xung sát hằng trăm, hằng ngàn trận. Không lẽ trẫm chịu thua họ ta sao?

Ngài chỉ Thái-sư Trần Thủ-Độ:

- Còn Thái-sư! Thái-sư từng thống lĩnh binh đoàn Phương Đông của Mông-cổ. Tại sao trong trận lớn như thế này, khanh không cho Thái-sư xuất trận?

- Tâu, ý thần muốn bệ hạ cùng Thái-tử ẩn quanh Thăng-long, điều động toàn quân. Đợi khi giặc mệt mỏi, bệ hạ sẽ xuất trận, khích lệ ba quân truy kích giặc.

Vương thấy trên mặt nhà vua thoáng vẻ không vui. Vương biết võ công ngài cực cao, ngài lại muốn nêu gương chiến đấu với ba quân... Vương đành tâu:

- Nếu như bệ hạ muốn ra tuyến đầu đối trận với chúng, thần xin đề nghị bệ hạ thân chinh tại Bình-lệ-nguyên. Còn Thái-sư, thì xin Thái-sư cùng Khu-mật viện thống lĩnh cả ba mặt trận Bình-lệ-nguyên, Cụ-bản, Phù-lỗ.

Nhà vui tỏ ý vui mừng:

- Trẫm xin lĩnh nhiệm vụ của một đại tướng... Bấy lâu, trẫm có một đội Thị-vệ trên 3 trăm người, trẫm sẽ mang theo...Rồi! Bây giờ trong 28 tướng tình nguyện, khanh chọn lấy ba người chỉ huy ba mặt trận.

- Trong các tướng tình nguyện, người nào cũng có đủ tài trí trấn tại ba tuyến đầu. Thần xin cho rút thăm.

Người trẻ nhất hiện diện là Huệ-Túc phu nhân. Phu nhân cắt 28 mảnh giấy, cầm bút viết vào ba mảnh. Mảnh thứ nhất có chữ Bình-lệ-nguyên. Mảnh thứ nhì có chữ Cụ-bản. Mảnh thứ ba có chữ Phù-lỗ...rồi gấp lại bỏ vào trong cái đĩa bằng vàng. Nguyên-Phong hoàng đế cầm cái đĩa đưa ngang đầu. Ngài khấn:

" Thần Trần Cảnh, đức bạc, phải lĩnh trọng trách bảo vệ Xã-tắc. Nay Mông-cổ như hùm, như sói sắp sửa vào cướp phá. Chư tướng đều tình nguyện ngăn giặc. Xin Quốc-tổ, Quốc-mẫu, chư vị thần linh Đại-Việt chọn ba tướng tài trí để lĩnh trọng trách trấn Bình-lệ-nguyên, Cụ-bản, Phù-lỗ".

Huệ-Túc phu nhân đứng dậy mang bát đi một vòng. Mỗi tướng rút một thăm. Thái-sư Trần Thủ-Độ hô:

- Mở thăm!

Sau khi mở thăm, hầu hết các tướng đều tỏ vẻ thất vọng. Duy Lê Tần, Trần Tử-Đức và Phạm Cụ-Chích hiện ra vẻ hân hoan. Thái-sư Trần Thủ-Độ kiểm lại: Phiếu của Lê Tần có chữ Bình-lệ-nguyên, của Phạm Cụ-Chích có chữ Cụ-bản, của Trần Tử-Đức có chữ Phù-lỗ.

Nguyên-Phong hoàng đế ban chỉ:

- Mừng cho ba vị tướng quân được lĩnh trọng trách trấn nhậm địa đầu ngăn giặc.

Hưng-Đạo vương trao binh phù cho Lê Tần:

- Vũ-kỵ thượng tướng quân lĩnh hiệu binh Yên-bang, một đạo Kỵ-binh thuộc hiệu Phù-Đổng, một đạo Ngưu-binh Hoa-lư, thêm hạm đội Âu-Cơ dàn ra tại Bình-lệ-nguyên. Khi giặc tới, phải đánh một trận cho chúng biết rằng Nam-phương không thiếu những người con can đảm bảo vệ đất tổ. Sau đó sẽ xuống thuyền của hạm đội Âu-Cơ, rút về bến Đông-bộ đầu Thăng-long đặt dưới quyền Hưng-Ninh vương chờ lệnh phản công. Hoàng thượng sẽ xuất trận, khích lệ tướng sĩ.

Nhà vua nhìn Lê Tần:

- Trẫm sẽ là một tướng dưới quyền điều động của khanh.

Vương đưa mắt nhìn Nam-thiên ngũ long, rồi cung cung, kính kính đứng dậy:

- Mông-cổ mang theo rất nhiều cao thủ võ lâm Trung-nguyên, với ý định giết tướng, làm loạn hàng ngũ. Tuy vậy trong lúc Mông-cổ tiến binh, thì các tôn sư võ học phải ẩn thân. Tuyệt đối không giao chiến. Chờ lúc phản công thình lình ra tay, giết tướng giặc. Còn khi giặc tiến binh thì các vị có võ công cao, xin vị có thể nhập trại Mông-cổ để dò quân tình, kịp thời báo cho Khu-mật viện hay cho các tướng. Vậy thần xin các vị trưởng thượng di giá lên Bình-lệ-nguyên, Cụ-bản, Phù-lỗ để dò quân tình địch Tuyên-minh thái hoàng thái hậu mỉm cười:

- Trong năm chúng tôi, thì Linh-Từ quốc mẫu bận chỉ huy, bảo vệ hậu cung, không thể xuất trận. Vương phi Kinh-Quốc vương đảm trách theo đạo quân của Thái-tử. Vậy chỉ còn già này với Hưng-Nhân vương phi và Kiến-Quốc vương phi. Vậy Hoàng nhi nên sai sứ đến yết kiến Vô-Huyền bồ tát, xin Bồ-tát điều động võ lâm, theo ba cánh quân để tùy nghi yểm trợ thì hơn.

Ghi chú của thuật giả Nam-thiên ngũ long, xin xem chú giải hồi 45. Nhân-Huệ vương thắc mắc:

- Mông-cổ có 5 vạn Lôi-kỵ, 5 vạn quân Đại-lý, với hai mươi vạn lao binh. Thế mà ta chỉ có một hiệu bộ binh, một đạo Kỵ-binh, một đạo Ngưu-binh, một hạm đội, tổng cộng chưa quá hai vạn người. Lấy một chọi mười thì nguy thay!

- Vương gia ơi! Bình-lệ-nguyên có một khu đất dài không quá hai dặm, giỏi lắm mỗi bên dàn được năm nghìn quân là nhiều. Quân Mông-cổ có đông đến đâu chăng nữa cũng vô ích mà thôi.

Hưng-Đạo vương trao binh phù cho Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Phạm Cụ-Chích:

- Tướng quân lĩnh hiệu binh Tiên-yên, một đạo Kỵ-binh thuộc hiệu Phủ-đổng, một đạo Ngưu-binh thuộc hiệu Hoa-lư trấn tại Cụ-bản. Sau khi cánh quân của tướng Lê Tần, cùng hạm đội Âu-Cơ rút về rồi, tất bọn Mông-cổ đuổi theo. Trái với đạo quân Bình-lệ-nguyên. Tướng quân thiết lập hệ thống đồn thực kiên cố, nằm trên đường đi. Như vậy giặc bắt buộc phải công đồn. Trận chiến sẽ hết sức khốc liệt. Khi thấy đồn ải bị vỡ, tướng quân cho binh sĩ tản ra thành nhiều toán nhỏ, đi theo hương lộ, lùi về hương Đông Thăng-long, đặt dưới quyền Thái-tử chờ phản công.

Hưng-Đạo vương là người gần với Phạm Cụ-Chích nhiều nhất. Vương biết Phạm là người trung chính, khi luyện hiệu Ngưu-binh, ông chỉ dạy tiến, mà không dạy lùi. Bây giờ để ông trấn Cụ-bản, thì e ông tử chiến, chứ không chịu lui. Vương tiến lên cầm tay ông:

- Phạm hiền đệ. Những lời ta sắp nói với đệ đây là của người anh, nói với người em. Đệ có nghe ta không?

- Đệ xin nghe.

- Phàm làm đại tướng, thì phải biết tiến, biết lùi. Chứ không nên cứng quá. Mũi nhọn dễ gẫy.

- Dạ.

Tuy Cụ-Chích vâng dạ, nhưng trong lòng Vương vẫn áy náy không yên.

Vương gọi Phú-lương hầu Trần Tử-Đức:

- Hầu lĩnh hiệu binh Yên-phụ, một đạo Kỵ-binh thuộc hiệu Phù-đổng, một đạo Ngưu-binh thuộc hiệu Hoa-lư, trấn tại Phù-lỗ. Sau khi quân của Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân rút rồi, ắt quân quân Mông-cổ kiêu căng, mục hạ vô nhân, chúng sẽ tràn tới như nước vỡ bờ. Tướng quân đánh một trận cho chúng ghê sợ, rồi chia quân thành toán nhỏ, tản vào làng xã, lui về Tây-kết, đặt dưới quyền của Thái-tử, chờ ngày phản công.

Bùi Thiệu Hoa hỏi:

- Khải vương gia, thần với Trần Ý Ninh có đội nữ võ sĩ hơn trăm người, vẫn dùng để huấn luyện thanh nữ tại Ngũ-yên. Không biết trong trận đánh lớn này, vương gia có cho thần mang theo không?

- Được! Phu nhân cứ mang theo.

Trần Ý Ninh than:

- Đánh giặc mà lùi thì...chán quá!

Trong không khí trang nghiêm cực kỳ, mà cử tọa nghe một thiếu nữ sắc nước hương trời than, cũng bật cười. Nhà vua an ủi:

- Quận chúa lùi một lần, rồi tiến cả trăm lần. Đấy mới thú vị!

Hầu hỏi Hưng-Đạo vương:

- Thần có người em kết nghĩa tên Nguyễn Thiên-Sanh, hiện đẳng cấp tới Đô-thống, đang coi một vệ quân Tế-tác của Ngũ-yên chuyên bắt trộm cướp. Xin vương gia cho Sanh cùng trấn Phù-lỗ với thần.

Nghe nói đến tên Nguyễn Thiên-Sanh, hầu như tất cả chư tướng vùng Ngũ-yên đều bưng miệng cười. Thái-sư Trần Thủ-Độ thấy có sự lạ, ông hỏi:

- Cái gì mà chư vị cười?

Hưng-Ninh vương đáp:

- Thưa Thái-sư, anh em chúng tôi cười là cười về hành trạng kỳ lạ của Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh.

_?!?!?!

- Phú-lương hầu Trần Tử-Đức, Đô-thống Lý Tùng-Bách, Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh là ba anh em kết nghĩa. Đô-thống Lý Tùng-Bách là một võ quan trí dũng tuyệt với, giỏi kỵ chiến bậc nhất bậc nhì Đại-Việt. Còn Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh, rất thông minh, võ công cao, nhưng học văn thì cực kỳ lười. Vì khi sinh ra, môi trên bị rách, hở hàm răng, nên bạn hữu gọi là Sanh Méo. Hưng-Đạo vương trao cho Sanh nhiệm vụ bắt trộm, bắt cướp ở vùng Yên-sinh. Mỗi khi nghe thấy trong vùng nào có trộm, hay cướp, Sanh không đem quân đi bắt, mà âm thầm dò la. Rồi đêm đến, y bí mật đột nhập nhà tên trộm, bắt vợ con nó trói bỏ gầm giường, sau đó leo lên giường giả làm vợ hắn nằm chờ. Khi tên trộm trở về mò vào giường, y mới ngồi bật dậy bắt sống.

Cả triều đình cùng im lặng nghe Hưng-Ninh vương kể. Vương tiếp:

- Tất cả đầu trộm, tướng cướp bị Sanh bắt sống, đều khâm phục đởm lược của Sanh, xin suy phục. Sanh xin ân xá cho chúng, rồi luyện võ, dậy hành binh, xung phong hãm trận. Hiện đám này lên đến 12 tên, người nào cũng có quân hàm Đô-úy, Vệ-úy. Thiên-Sanh kết huynh đệ với 12 người này. Ngũ-yên không trộm, chẳng cướp là nhờ Sanh Méo.

Nguyên-Phong hoàng đế cực kỳ vui vẻ, ngài buột miệng:

- Phải gọi Sanh với 12 người này là Đại-đởm thập tam kiệt mới đúng.

Hưng-Đạo vương ban lệnh:

- Tôi đồng ý cho Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh theo Hầu trấn Phù-lỗ.

- Tuân chỉ.

Thái-sư Trần Thủ-Độ hỏi Phạm Cụ-Chích:

- Mông-cổ dùng Lôi-kỵ tấn công. Khắp gầm trời này, không nước nào có thể chống nổi. Thế nhưng tôi nghe Hưng-Đạo vương muốn dùng Ngưu-binh chống Lôi-kỵ. Vậy tướng quân có thể trình bầy rõ khả năng Ngưu-binh cho chư tướng biết.

Phạm Cụ-Chích đứng dậy:

« Ngưu-binh là một loại binh, mà duy nhất Đại-Việt ta biết xử dung. Ngưu-binh do vua Đinh Tiên-Hoàng cùng các tướng thuộc quyền đã nghiên cứu rồi chế ra.

Nguyên thời thơ ấu, vua Đinh là một mục đồng. Vì vậy ngài chế ra những tiếng để ra lệnh cho trâu. Lúc đầu chỉ có 72 tiếng. Ngài lại dùng trâu lập trận, khi hợp, lúc phân, khi tiến, lúc lùi, khi húc, lúc lồng. Tổng cộng 36 thế võ khác nhau. Trên sừng trâu hoặc buộc dao, hoặc buộc giáo nhọn. Lưng trâu sẽ qua áo tơi, trên áo tơi ghép nhiều miếng thép, đồng, để không bị tên bắn.

Đến đời Lý, Tây-hồ thất kiệt, Long-biên ngũ-hùng lại xử dụng Ngưu-binh đánh Tống. Nhân đó chế ra tới 180 tiếng ra lệnh cho trâu. Các thế võ bắt trâu tập từ 36 tăng lên 72.

Cho đến nay, Ngưu-binh được luyện tập thành một thứ binh dân gian. Về tác chiến, như khi gặp trận địch kiên cố, một đội trâu xếp hàng 10, dàn làm 5 hàng cùng xung vào. Sau khi húc vỡ trận địch, thì chia ra làm hai, mỗi bên năm trâu, húc sang hai bên. Hàng thứ hai tiếp tục xông vào trong trận địch. Sau khi húc vỡ lớp thứ nhì của trận lại chia hai, tỏa ra hai bên. Hàng thứ ba tiếp tục thocï sâu vào trận địch.

Mông-cổ có Lôi-kỵ, mà ta dùng Kỵ-binh chống với họ thì không khác gì lấy sở đoản mà chống sở trường? Địa thế của ta toàn đồng lầy, rừng rậm? Địa thế này Kỵ-binh vô dụng, ngược lại Ngưu-binh lại thuận lợi.

Kỵ-binh Mông-cổ giỏi về tiễn thủ, ta dùng Ngưu-binh mang khiên-mây xung phong trước, quân bộ theo sau, thì có thể chống được.

Tất cả các cấp chỉ huy Ngưu-binh đều tuyển từ mục đồng, rồi huấn luyện. Các cấp Ngũ, Lượng, Đô thì huấn luyện tại xã, huyện. Các cấp Vệ, Quân, Hiệu thì phải đưa về trường Ngưu-binh ở Hoa-lư học ».

Thái-sư Thủ-Độ cau mặt:

- Tôi cầm quyền Tể-tướng, cứ thấy báo cáo có nhiều Hiệu, Quân, Vệ Ngưu-binh, mà không thấy đòi tiền nuôi trâu, nuôi binh là cớ gì?

Hưng-Đạo vương đáp:

- Thưa Thái-sư, nếu như thành lập một Hiệu Ngưu-binh với 9.600 trâu, thì công nho phải chi tiêu nào trại cho trâu ngủ, nào người cắt cỏ, nào người tắm trâu, nào y sĩ chăm sóc trâu. Khi trâu già phải mua trâu trẻ thay thế, lại phải chi rất lớn để hằng ngày nuôi trâu. Vì vậy, ta chỉ tuyển người lập Cương (Ngày nay gọi là Khung) chỉ huy Vệ, Quân, Hiệu. Còn lại, trâu của dân chúng đều được huấn luyện thành Ngưu-binh. Tất cả mục đồng đều huấn luyện thành Ngũ, Lượng, Đô trưởng. Tỷ như khi giăëc tới Đăng-châu, ta cần một Vệ Ngưu-binh, thì gửi lên một Cương, gồm các cấp chỉ huy của Vệ, rồi tập hợp các Ngũ, Lượng, Đô lại, nhanh chóng lâm chiến. Sau trận đánh, trâu, mục đồng lại trả về dân. Các cấp chỉ huy lại trở về.

Triều đình thở phào nhẹ nhõm. Bởi từ lâu, họ nghe nói nhiều về Ngưu-binh. Hôm nay họ mới hiểu rõ.

Sau khi trả lời hết thắc mắc của chư tướng. Hưng-Đạo vương tâu với nhà vua:

- Ba hiệu binh Yên-bang, Tiên-yên, Yên-phụ, hiệu Kỵ-binh Phù-Đổng, hiệu Ngưu-binh Hoa-lư là năm hiệu binh sẽ phải đối đầu với địch. Xin bệ hạ duyệt, rồi ban lời khích lệ, cho binh sĩ phấn khởi.

Ngay hôm sau, các hiệu binh rầm rộ di chuyển về vùng trấn nhậm. Tuy đã luyện tập liên tiếp ba năm qua về chiến thuật của Hưng-Đạo vương. Thế nhưng bây giờ di chuyển về địa phương mới. Các tướng thân dẫn cấp chỉ huy đô, vệ, đạo, hiệu quan sát địa thế từng con lộ, từng con lạch, từng xóm, từng làng để biết rõ địa thế. Tiếp theo, các đô trưởng dẫn quân trực thuộc tập trận giữ làng với hoàng nam. Quân, dân, già, trẻ, nam, nữ hồ hởi chờ giặc.

Nguyên-Phong hoàng đế, cùng Thái-sư Trần Thủ-Độ, Tiết-chế Hưng-Đạo vương duyệt các đơn vị trấn tại Bình-lệ-nguyên. Vũ-kỵ thượng tướng quân Lê Tần trình bầy chi tiết việc dàn quân, nơi đặt chông, chỗ phục binh, cùng kế hoạch tiến lui. Long tâm hoan hỷ. Ngài đi duyệt binh. Trước hết là hiệu Yên-bang, tướng chỉ huy là Đô-thống Trần Biên, tuổi khoảng 30, dáng người nhỏ bé, da sạm đen, vẻ mặt cương quyết. Thái-sư Thủ-Độ hỏi:

- Đô thống có biết nhiệm vụ của cánh quân Bình-lệ-nguyên phải làm gì không?

- Thưa Thái-sư.

Trần Biên trả lời: Có ba nhiệm vụ. Một là đánh chặn đường, cho Mông-cổ biết Đại-Việt ta không thiếu anh hùng, hào kiệt. Hai là rút về Đông-bộ-đầu, ẩn vào làng xóm cùng dân chống giặc. Ba là phản công truy kích giặc.

- Giỏi.

Thái-sư hỏi tướng chỉ huy đạo Kỵ-binh:

- Người báo danh đi.

- Thuộc hạ là Đô-thống Nguyễn Thời, tục danh Thời thẹo. Đạo Kỵ-binh có 300 ngựa, 20 thớt voi.

- Sau khi giao chiến một trận, bộ binh rút lui xuống hạm đội. Vậy Kỵ-binh rút như thế nào?

- Thuộc hạ đã nghiên cứu rất kỹ. Voi, ngựa chia thành toán nhỏ, rút theo hương lộ. Khi quân của thuộc hạ rút rồi, thì hoàng nam sẽ đăt chông, đặt chà trên đường. Giặc không thể đuổi theo được. Mà ví dù chúng có đuổi theo, cũng bị hương binh phục trong các con đường nhỏ bắn chết.

Đến trước đạo Ngưu-binh, nhà vua hỏi tướng chỉ huy:

- Khanh báo danh đi.

- Tâu thần là Đô-thống Nguyễn Tha. Nguyên xuất thân chăn trâu. Đạo của thần gồm 300 trâu. Trâu đều khỏe mạnh.

Ngài phóng mắt nhìn đoàn trâu: Sừng buộc dao, hoặc giáo nhọn. Lưng có áo giáp. Mỗi trâu có một Ngưu-binh đứng cạnh. Tuổi chúng từ 11 đến 20. Đứa nào cũng cháy nắng, da đen thui, nhưng khỏe mạnh. Trong 20 Đô Ngưu-binh hiện diện, thì đứng đầu mỗi Đô là một Đô-úy, tay cầm cờ, cổ đeo tù và.

Nguyễn Tha tâu:

- Đây là 20 đô úy chỉ huy 20 đô Tế-tác. Gồm có 10 nam, 10 nữ. Chúng có tên rất đặc biệt. Mười nam thì 5 mang tên Cu là Cu Chó, Cu Đen, Cu Méo, Cu Rỗ, Cu Lác ; 5 mang tên Trâu là Trâu Đen, Trâu Xanh, Trâu Điên, Trâu Trắng, Trâu Mập. Mười nữ có 5 mang tên Hĩm là Hĩm Còi, Hĩm Cao, Hĩm Lùn, Hĩm Rỗ, Hĩm Hô ; 5 nữ mang tên Cái là Cái Lan, Cái Huệ, Cái Sen, Cái Hồng, Cái Tiên.

Hoàng đế hỏi một nữ Đô-úy:

- Khanh báo danh đi.

Đứa con gái đáp:

- Thưa vua, cháu là Hĩm Còi.

- Thế họ tên cháu là gì?

- Cháu mồ côi từ bé, không biết bố mẹ là ai, nên không biết họ, cũng chẳng có tên.

- Cháu bao nhiêu tuổi?

- Cháu tuổi Ất Tỵ.

- À, Ất Tỵ là 14 tuổi.

Nhà vua bật cười. Ngài hỏi đứa con trai, tuy mặt non choẹt, nhưng người nó to lớn kềnh càng:

- Cháu báo danh đi.

- Cháu là Cu Chó.

Cũng như Hĩm Còi, Cu Chó không tên, chẳng họ, không biết mình bao nhiêu tuổi. Ngài bẹo má hai trẻ, tỏ một cử chỉ yêu thương, rồi hỏi:

- Khanh cho biết nhiệm vụ phải làm gì?

Cu Chó trả lời:

- Vũ-kỵ thượng tướng quân ban lệnh: Sau khi giao chiến một trận, thì bộ binh rút xuống thuyền. Kỵ-binh tản vào nàng. Còn Ngưu-binh đi cản hậu. Nếu như Nôi-kỵ Mông-cổ đuổi theo, thì bọn cháu xua tâu chạy xuống đồng lầy. Bố bảo Kỵ-binh giặc cũng không dám đuổi theo. Nhược bằng chúng đuổi theo, thì ngựa sa nầy hết, bọn cháu sẽ dùng tâu húc chúng nòi ruột con bà chúng ra hết.

Hầu hết Ngưu-binh là những trẻ mục đồng lâu năm, được tuyển mộ, rồi huấn luyện thành binh sĩ. Những ngôn ngữ bình dân chúngï dùng từ nhỏ đã quen, coi là sự thường. Bây giờ, lần đầu tiên đứng trước mặt đấng chí tôn, Cu Chó thuận miệng tuôn ra, mà y không biết là vô phép. Nhà vua nghe tiếng bình dân, bất giác bật thành tiếng cười.

Thấy Cu Chó nói ngọng theo thổ âm vùng Thiên-trường. Hưng-Đạo vương bẹo má nó:

- Quê con ở đâu?

- Dạ ở Thiên-tường.

- Bố mẹ con tên gì?

- Con mồ côi từ bé, không biết bố mẹ là ai!

Nguyễn Tha tâu:

- Tuy Cu Chó mới mười ba tuổi, nhưng sức khỏe không ai sánh. Trong đội Kỵ-binh, ai vật nhau với Cu Chó cũng bị nó vật ngã hết.

Thấy nét mặt Cu Chó có vẻ buồn, Hưng-Đạo vương xua đầu nó:

- Anh hùng đâu quản xuất thân. Thôi để ta nhận con làm con nuôi. Từ nay họ của con là Trần. Để ta đặt cho con một cái tên...

Ngài còn đang suy nghĩ thì Nguyên-Phong hoàng đế mỉm cười:

- Trông nó to lớn kềnh càng không khác gì con voi, thôi thì cứ gọi là Dã Tượng. Dã là đồng quê, tượng là con voi.

Thời xưa được vua, chúa ban cho cái tên là một điều cực kỹ hãnh diện. Cu Chó quỳ gối tạ ơn. Hưng-Đạo vương rút thanh trủy thủ đeo bên hông:

- Con là con ta. Trong các con của ta, ta đều cho một thanh trủy thủ để làm tin. Vậy con hãy cầm lấy con dao này.

Dã Tượng tiếp đao đeo vào bên hông.

Hoàng Đế đến trước một đội thiếu niên khác. Tất cả đều mặc quần áo bó sát lấy người. Mỗi thiếu niên đều đeo sau lưng cuộn dây thừng, một cái búa, hai ba cái đục, một số đinh lớn. Đội trưởng là một thiếu niên, dáng người thanh nhã, da trắng, mắt sáng. Nó hành lễ:

- Thần là Sấu-vàng, xin bái kiến Hoàng-đế bệ hạ.

Nguyễn Tha giới thiệu:

- Tâu bệ hạ, đây là đội Ngạc-ngư, gồm 18 thiếu niên. Tất cả đều là con của ngư dân trong vùng Đồn-sơn. Chúng có thể lặn dưới nước lâu hàng giờ. Những dụng cụ võ trang cho chúng dùng để đục thuyền địch. Đội trưởng có danh hiệu Sấu-vàng, không tên, chẳng họ.

Nhà vua bẹo má Sấu-vàng:

- Bố mẹ con là ai?

Sấu-vàng cúi mặt xuống:

- Tâu, bố mẹ con đi đánh cá, bị đắm thuyền qua đời từ lâu.

Nguyên-Phong hoàng đế chỉ Hưng-Đạo vương:

- Vương nên nhận trẻ này làm con...

Hưng-Đạo vương nắm tay Sấu-vàng:

- Tuân chỉ Hoàng-thượng, ta nhận con làm con. Cu Chó được Hoàng-thượng ban cho tên Dã Tượng. Vậy ta cũng đặt cho con cái tên là Yết-Kiêu.

Ngài lại tặng cho Yết Kiêu thanh trủy thủ.

Ghi chú của thuật giả Sử sách đều ghi, hai anh hùng Dã Tượng, Yết Kiêu là gia tướng của Hưng-Đạo vương. Trong khi đó thì gia phả các chi con cháu ngài lại ghi hai ông là con nuôi. Tôi thấy gia phả đáng tin hơn. Bởi sau này, tứ vị vương tử là Hưng-Vũ vương, Hưng-Hượng vương, Hưng-Hiến vương, Hưng-Trí vương cho tới nhị vị vương cô Khâm-Từ hoàng hậu, công chúa Thủy-Tiên...tuy địa vị lớn mà vẫn lễ phép với hai ông, vì hai ông là con nuôi, lại cao niên hơn, tức là vai anh. Nếu là gia tướng thì lễ nghi thời Trần, phân biệt chủ, tớ rất phân minh, không thể có việc này. Thế rồi, tháng 9, Ngột-lương Hợp-thai không thấy sứ trở về phục mệnh. Y sai một sứ đoàn nữa lên đường. Cũng như sứ đoàn trước, khi tới biên giới, cũng được triều đình cử Chiêu-Minh vương cùng ba hầu tước biết nói tiếng Mông-cổ lên biên giới tiếp rước trọng thể. Khi về Thăng-long, sứ thần cũng hống hách, trịch thượng. Thái-sư Trần Thủ-Độ lại ra lệnh tống giam vào ngục.

Sang tháng 10, không có tin tức của hai sứ đoàn trước. Ngột-lương Hợp-thai lại sai sứ đoàn thứ ba lên đường. Lần này triều đình Đại-Việt cử Hoài-Đức vương cùng ba hầu tước lên đón rước rất trọng thể. Khi tới Thăng-long, sứ đoàn đặt yêu sách: Triều đình Đại-Việt phải cho họ gặp hai sứ đoàn trước, rồi họ mới chịu trao quốc thư. Thái-sư Thủ-Độ vui vẻ truyền lệnh: Họ muốn gặp hai sứ đoàn trước thì cho gặp. Họ được dẫn vào nhà ngục, gặp hai sứ đoàn trước, và họ được gông lập tức, để ba sứ đoàn được sống với nhau trong ngục. Vui vẻ vì gặp nhau... Căm hận vì bị giam...Uất ức vì không báo tin về cho Ngột-lương Hợp-thai biết tình trạng của họ.

Ghi chú của thuật giả ĐVSKTT chép Ngột-lương Hợp-thai ba lần sai sứ đến dụ vua Trần Thái-tông đầu hàng, nhưng không chép rõ thời gian ba lần sứ đến.

- ĐVSKTT chỉ chép sứ tới lần đầu vào tháng 8.

- Nguyên-sử quyển 121 chép sứ đến lần thứ nhì vào tháng 9.

- Nguyên-sử quyển 209 chép sứ đến lần thứ ba vào tháng 10.

Chỉ độc giả AHĐA mới biết rõ chi tiết, thời gian ba lần sứ đến, rồi bị tống giam như thế nào mà thôi.

Ngày 1 tháng Chạp năm Đinh Tỵ nhằm niên hiệu Nguyên-Phong thứ 7, đời vua Thái-tông nhà Trần (6 tháng 1 năm 1258) Tướng thống lĩnh đạo quân trấn biên là Vũ-Uy vương sai ngựa Lưu-tinh về Thăng-long cáo cấp:

" Không biết bằng cách nào đó, Ngột-lương Hợp-thai biết rõ vụ ba sứ đoàn bị tống giam. Y quyết tiến quân vào Đại-Việt. Chỉ còn hai ngày nữa thì chúng sẽ nhập vào biên giới. Tiền quân chia làm hai cánh, tiến dọc theo sông Thao. Hai tướng chỉ huy là Triệt Triệt Đô và A Tan. Mỗi cánh gồm một nghìn Lôi-kỵ, năm nghìn quân Đại-lý, một vạn lao binh. Phò-mã Hoài-Đô và con trai Ngột-lương Hợp-thai là A Truật dẫn một cánh tiếp ứng, gồm 1 vạn Lôi-kỵ, 2 vạn quân Đại-lý, 3 vạn lao binh. Còn đại quân Ngột-lương Hợp-thai tiến sau. Thần lệnh cho Đô-thống Trần Quới chỉ huy hiệu Tiền Thánh-dực cùng Hà Khuất thống lĩnh dân binh vùng Quy-hóa chia quân thành các Đô Vệ, giữ các trang ấp. Từ Quy-hóa tới Thảo-lâm, Đô-thống Bùi Hoán chỉ huy hiệu Tả Thánh-dực trấn nhậm. Lưu động từ Quy-hóa tới Bỉnh-lệ nguyên do Đô-thống Hoàng Vui chỉ huy hiệu Hữu Thánh-dực, đội Trấn-quốc, gây bất ổn cho giặc ».

Khu-mật viện sai chim ưng báo cho tất cả các tướng chỉ huy mặt trận, cũng như các phủ, huyện, trấn biết, kịp thời phản ứng. Toàn quốc rung động. Nhà nhà chuẩn bị, người người mài gươm, vót chông, chế tên chuẩn bị giết giặc.

Hưng-Đạo vương cùng các cấp trong bộ tham mưu đóng trên một soái hạm của hạm đội Âu-Cơ đậu ở bờ sông Thao. Nguyên-Phong hoàng đế dẫn ba trăm Thị-vệ tới Bình-lệ-nguyên tham chiến. Trước khi lên đường, Hưng-Đạo vương truyền trói ba tên bồi sứ Mông-cổ Trịnh Ngọc, Trịnh Đức, Trịnh Long, bịt mắt mang theo. Tới Bình-lệ-nguyên vương mời Vũ-Uy vương, Lê Tần xuống soái thuyền, rồi ban lệnh:

- Như quốc kế đã nghị, chúng ta chỉ đánh một trận, rồi rút lui, ẩn vào dân kháng chiến, tiêu hao lực lượng giặc. Đợi giặc mệt mỏi, hết lương. Bấy giờ ta mới phản công. Vậy nhị vị cần hết sức tinh tế bảo tồn lực lượng.

Vương dặn riêng Vũ-Uy vương:

- Vương có đội võ sĩ Trấn-quốc, gồm toàn thiếu niên khôn ngoan, linh lợi. Tuy ta lùi, không giao chiến với giặc, nhưng vương cũng làm cho chúng bực tức, cáu giận, mất bình tĩnh, mất tự tin.

Vũ-Uy vương cười khúc khích:

- Đệ chỉ có võ công cao, có tài dùng binh. Còn từ mưu thần chước thánh, cho tới cách dùng trò ma, trò quỷ, lối hành sự lưu manh dân dã, thì Đô-thống Hoàng Vui, rất giỏi. Tiết-Chế yên tâm. Đệ sẽ làm cho chúng tức đến hóa điên, hóa khùng, đến xùi bọt mép ra được.

Nguyên-Phong hoàng đế duyệt lại một lượt kế hoạch của Lê Tần. Tướng Lê Tần sai cấp ngựa cho ba tên họ Trịnh, thả chúng về biên giới. Khi bị giải từ Thăng-long lên Bình-lệ-nguyên, bọn họ Trịnh những tưởng phen này bị chém đầu tế cờ. Không ngờ lại được thả ra.

Rời Bình-lệ-nguyên, đi về hướng Bắc, khi qua khu rừng Thảo-lâm, bọn họ Trịnh gặp một toán mười đứa trẻ chăn trâu, vừa trai, vừa gái ngăn lại. Đứa nào tay cũng lăm lăm gậy tầm vông, liềm cắt cỏ. Đứa lớn nhất mặt rỗ như tổ ong bầu. Nó vỗ ngực:

- Ông nội mày đại danh Cu Rỗ, lãnh chúa mục đồng vùng này. Ba chúng bay là ai? Có phải bọn bay là quân do thám của Mông-cổ không?

Trịnh Ngọc có hơi sợ, y đáp:

- Chúng bay không được vô phép. Bọn ta là bồi sứ của Thiên-quốc Mông-cổ. Chúng ta từ Thăng-long về Trung-nguyên.

Cu Rỗ chỉ mặt Trịnh Ngọc:

- Tổ bà mi! Mi là người Việt tại sao lại làm bồi sứ cho Mông-cổ. Mi nói láo rồi.

- Im miệng! Bọn ranh con mà biết gì? Bọn bay không được hỗn.

- Hỗn! Con bà mi. Ông cứ hỗn thì chúng mày làm gì ông nào?

Cu Rỗ hạ lệnh:

- Anh em ơi! Giết gian tế đi.

Cả bọn cùng thúc trâu bao vây ba tên họ Trịnh, chúng vung liềm, múa gậy. Trịnh Ngọc bở vía, y xuống nước:

- Tôi nói thực! Chúng tôi là bồi sứ mà.

- Nói láo. Nhất lé nhì lùn. Tao trông cái mã mi mắt ti hí, vừa lé, vừa lùn. Nhất định là gian tế rồi.

Cu Rỗ hỏi đứa con gái:

- Hĩm Cao! Mày nghĩ sao? Có đúng chúng là gian tế không?

Đứa con gái hô to:

- Nhất định nó là gian tế rồi. Có tật giật mình. Cứ nhìn dáng điệu sợ sệt, cái mặt bé choắt chéo thế kia, thì chúng là gian tế đứt đuôi con noòng loọc đi rồi. Làm thịt chúng đi anh em ơi.

Bọn trẻ vật cổ ba gã họ Trịnh, trói váo gốc cây. Thằng Cu Rỗ hét:

- Bọn con ghế, nhắêm mắt lại.

Một đứa con trai dùng liềm móc vào bụng Trịnh Long giật một cái, rút quần đứt ra. Y trở thành tồng ngồng.

Cu Rỗ lại hạ lệnh:

- Thiến!

Một thằng mục đồng khác vung liềm, tên Trịnh Long bị thiến. Y hét lên một tiếng lạc giọng. Một đứa mục đồng khác lấy thuốc cầm máu rịt vết thương cho y. Tiếp theo, tên Trịnh Đức bị cắt hai tai. Tên Trịnh Ngọc bị cắt mũi.

Đám trẻ hành sự xong, chúng đem thuốc cầm máu, lấy vải buộc vết thương cho ba tên họ Trịnh, rồi Cu Rỗ đe dọa:

- Ông nói cho bọn bay biết. Ông là cháu 10 đời của vua Đinh Tiên-Hoàng, thống lĩnh mục đồng vùng này. Hôm nay, ông sinh phúc tha cho bọn mi khỏi bị chết. Nhược bằng bọn mi còn theo Mông-cổ, hại nước thì ông sẽ chọc thủng mắt bọn mi. Nhớ không!

- Nhớ!

Bọn họ Trịnh đi rồi, đám mục đồng cười với nhau:

- Đô-thống Hoàng Vui hay thực. Người sai chúng ta đón đường hành sự, chỉ với mục đích nhắn cho bọn Mông-cổ biết: Nước Việt đến đứa trẻ cũng biết ra sức giữ nước.

Tuy được rịt thuốc, băng bó, nhưng cũng đau đớn đến chết đi sống lại. Ba tên Việt-gian họ Trịnh cố lết về tới biên giới. Gặp tiền quân của A Tan, cha con, anh em họ Trịnh khóc lóc tường thuật việc ba sứ đoàn bị tống giam. Tên Trịnh Ngọc báo: Quân Đại-Việt đã dàn ra tại Bình-lệ-nguyên chờ đợi.

- Thái-sư sai người do la tin tức về đại tướng Trần Thủ-Độ. Người đã dò ra chưa?

- Không những tiểu nhân tìm ra tông tích ông ta, mà còn biết rất nhiều về mưu mô của triều đình Đại-Việt nữa!

_???

- Tuy bị giam trong tù, nhưng tiểu nhân cũng liên lạc được với các tay sai ở ngoài. Chúng cho tiểu nhân biết một tin trọng đại: Trần Thủ-Độ là Thái-sư An-Nam. Ông ta mới chết cách đây bốn tháng?

- Tại sao ta không nghe An-Nam phát tang?

- Bí mật! Vua An-Nam biết rằng Trần Thủ-Độ từng làm đại tướng Mông-cổ. Khi nghe danh ông còn sống, tất binh tướng ta còn nể vì. Do vậy, dù ông ta chết, nhưng triều đình vẫn dấu, rồi tìm một người giống ông ta. Hằng ngày, Thủ-Độ giả vẫn ra vào Hoàng-thành, thành ra ai cũng tưởng ông ấy còn sống!

- Có thực không?

- Chính tiểu nhân gặp Trần Thủ-Độ giả. Tiểu nhân nói tiếng Mông-cổ, y ngơ ngác không hiểu gì, ậm ờ cho qua.

- Tin này quý lắm. Để ta khẩn sai người báo với Thái-sư.

A Tan là tướng kinh nghiệm chiến đấu. Lập tức y ra lệnh y sĩ điều trị cho ba tên họ Trịnh, rồi tiến binh thực gấp. Đích thân y đi tiên phong.

Thế nhưng từ khi nhập vào biên giới Đại-Việt, y cảm thấy một cái gì ghê ghê, lạnh lẽo khó tả. Khí hậu tháng Chạp buốt tới xương, gió heo may rít lên từng cơn nghe thực khó chịu. Trên đường, không một bóng người, không một bóng thú. Những trang, những động, cổng đóng im lìm. Giờ Thân, y ra lệnh cho quân ngừng lại nấu cơm chiều. Nhưng trời mưa phùn, không tìm đâu ra rơm, rạ, củi khô. Quân sĩ hạ trại trên một bãi đất bằng phẳng.

Có tiếng sao véo von, rồi từ một lối đi nhỏ hẹp trong rừng, hai đứa trẻ mục đồng, một nam, một nữ, tuổi khoảng mười hai, mười ba đang thủng thẳng đi ra. Chúng cỡi trên lưng trâu, mình mặc áo tơi, tay cầm ống tiêu tấu một bản nhạc êm dịu, nhẹ nhàng. Thấy quân Mông-cổ, nào người, nào ngựa rầm rập đi tới, mà hai trẻ vẫn thản nhiên tấu nhạc, mở to mắt nhìn. A Tan vẫy tay gọi chúng. Chúng thúc chân vào bụng trâu, miệng kêu tiếng nghé ọ. Hai con trâu thủng thẳng tiến lại gần A Tan. A Tan ra lệnh cho tên Trịnh Ngọc dịch.

- Hai đứa bay tên gì?

Đứa con gái chỉ đứa con trai:

- Nó là thằng Dã Tượng, đại danh Cu Chó. Còn cháu là con Hĩm Còi.

- Từ đây đến Bình-lệ-nguyên còn bao nhiêu dặm nữa?

Con Hĩm Còi lắc đầu:

- Tôi không nói. Ông cho tiền, tôi mới nói.

A Tan móc túi đưa cho Hĩm Còi một nén bạc. Con bé nhìn bạc, rồi bỏ vào túi, miệng nở nụ cười:

- Từ đây đến Bình-lệ-nguyên bao nhiêu dặm thì tôi không biết. Nhưng đi bằng chân thì mất một ngày. Đi bằng trâu thì mất nửa ngày. Còn phi ngựa thì chỉ mất hơn giờ thôi.

- Gần đây có làng xóm nào không?

Dã Tượng chỉ vào con đường mà chúng vừa đi ra:

- Phía sau khu rừng trúc này có đến ba xã lớn lắm.

- Mày có thể dẫn chúng tao vào làng kiếm củi khô không?

- Trong làng thiếu gì rơm, rạ, củi khô. Các ông vào đó mà mua.

- Mày dẫn đường nhé.

- Vâng.

A Tan sai hai Lôi-kỵ dẫn một Thập-phu lao binh theo hai đứa trẻ đi vào con đường mòn rừng trúc. Nhưng hơn hai khắc sau (28 phút ngày nay) không thấy quân trở về.

Tên Trịnh Ngọc tỏ ra hiểu biết:

- Tướng quân phải cẩn thận. Chúng ta đang ở trong vùng trấn nhậm của con thứ Trần Cảnh là Vũ-Uy vương. Tên này võ công đã cao, mà mưu trí không biết đâu mà lường. Cạnh y có tên Hoàng Vui, rất nhiều quỷ kế. Có thể hai trẻ mục đồng ban nãy là võ sĩ trong đội Trấn-quốc của y. Cách đây hơn nửa tháng, trên đường về biên giới, ba chúng tôi bị một bọn mục đồng do Cu Rỗ, Hĩm Cao làm nhục... cắt mũi, xẻo tai, rồi...thiến. Mưu này phi tên Vui, không ai nghĩ ra được.

A Tan gạt đi:

- Dù tên Vũ-Uy, dù tên Vui tên buồn gì, dù đội Trấn-quốc thế nào chăng nữa, với Lôi-kỵ, ta há sợ chúng sao?

Thế nhưng một khắc trôi qua. Sốt ruột, A Tan lại sai hai Lôi-kỵ khác dẫn một Thập-phu lao binh đi tìm. Nhưng hai khắc sau cũng không thấy chúng trở về. Biết có điều bất tường, y sai viên Thập-phu trưởng Lôi-kỵ dẫn một Thập-phu Lôi-kỵ, hai Thập-phu Đại-lý đi tìm. Không đầy nửa khắc sau, có tiếng hò hét, tiếng ngựa hý, tiếng quát tháo, tiếng vũ khí chạm nhau. Rồi hai Lôi-kỵ chạy bộ trở ra, mặt đầy máu. Chúng báo cáo:

" Qua con đường hai bên đầy bụi tre, khoảng trăm trượng, thì tới một con hương lộ dẫn tới một làng, bao bọc bởi những lũy tre dầy, cao vút. Cổng làng mở rộng. Chúng tôi vào trong làng, không một bóng người, không một bóng thú. Trên một bãi đất, bốn Lôi-kỵ, hai Thập-phu lao binh bị trói tròn như bó củi đặt nằm dài trên luống khoai. Chúng tôi tiến đến giải cứu, thì bị trúng phục binh. Chỉ một loạt tên, phân nửa chúng tôi bị ngã. Rồi những tên Nam man, nam có, nữ có, già có, trẻ có. Chúng trang phục dân gian. Đứa thì vác mã tấu, đứa thì vác gậy tầm vông, đứa thì vác dao phát dậu. Chúng xông ra chém giết. Vì chúng quá đông, nên chỉ hai chúng tôi chạy thoát về đây".

Tên Trịnh Ngọc được dịp khoe tài:

- Tôi đã nói, mà tướng quân không nghe. Nhất định vụ này do Vui-rỗ bầy ra!

A Tan đang cáu, không biết trút cái giận đi đâu, nghe gã Trịnh Ngọc nói, y co chân đạp gã một cái, gã ngã lăn như con chó tiền rưỡi. A Tan thân dẫn một Bách-phu Lôi-kỵ với hai Bách-phu quân Đại-lý, quyết giết hết bọn Nam man. Khi tới con đường nhỏ, chỉ có thể một ngựa đi vừa mà thôi. Y truyền quân ngừng lại quan sát: Cổng làng đã đóng. Giữa cổng, bốn năm con bùi nhùi rơm tẩm bùn chất lên nhau, chặn mất đường vào.

Dã Tượng, Hĩm Còi đứng trên con bùi nhùi, tay cầm tù và rúc lên tu tu, chúng nói vọng ra bằng tiếng Mông-cổ rất rõ ràng:

- Bọn Thát-đát! Có giỏi vào đây chơi với ông vài keo?

A Tan nổi lôi đình. Y dương cung bắn, nhưng ở xa quá, tên chưa tới cổng làng đã rơi xuống đất. Dã Tượng, Hĩm Còi biến mất.

A Tan nghĩ thầm:

- Con lộ nhỏ thế này, chỉ có thể đi được một người, thì làm sao tấn công vào làng?

Có ba tiếng trống, một tiếng thanh la vang lên. Cổng làng mở rộng, một con ngựa kéo chiếc xe hai bánh thủng thẳng tiến ra, trên đầy xác chết của Lôi-kỵ, của binh Đại-lý, của lao binh. A Tan muốn điên lên được. Trong đời chinh chiến của y. Y từng xung sát hàng trăm trận, chưa bao giờ y gặp một đối thủ kỳ quái như thế này.

Y sai đem xác hơn hai chục tử sĩ ra ngoài, rồi ban lệnh cho một Thập-phu trưởng:

- Người đem Thập-phu của người, dùng mộc che thân, xông vào chiếm cổng làng. Ta sẽ cho hai Thập-phu khác theo tiếp ứng.

Viên Thập-phu hô lên một tiếng, Thập-phu của y xếp hàng một vọt tới. Nhưng giữa lúc đó, một con trâu từ trong làng thủng thẳng đi ra. Người cỡi trâu mình mặc áo tơi, đầu đội nón che mất mặt nên không biết y là nam hay nữ, già hay trẻ? Y thổi tiêu. Tiếng tiêu véo von vang lên át cả tiếng vó ngựa. Thập-phu Lôi-kỵ đang vọt tới, bị ngăn lại. Viên Thập-phu trưởng vội giật cương, thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa bị bắt buộc ngừng khẩn cấp, nó hý lên một tiếng, rồi cất cao hai vó trước. Mười Lôi-kỵ đi sau cũng chung một hoàn cảnh.

A Tan biết đây là một kỳ nhân dị sĩ, y cảnh cáo viên Thập-phu trưởng:

- Phải cẩn thận!

Nhưng đã trễ. Viên Thập-phu trưởng tung giây thoòng loọng chụp cổ mục đồng, rồi giật mạnh. Vù một tiếng, ai cũng tưởng người mục đồng bay bổng lên cao, nhưng nào ai ngờ, gã Thập-phu trưởng bị tung lên trời. Ngườùi mục đồng cặp y vào nách, rồi vung tay lên. Mười tiếng vi vu rít lên trên không, mười mũi phi tiêu trúng giữa trán mười Lôi-kỵ phía sau.

A Tan hô Lôi-kỵ xung phong. Nhưng con đường quá hẹp, đã bị xác các Lôi-kỵ, bị ngựa chặn mất rồi. Chúng đành phi ngựa tràn xuống ruộng. Ngựa chạy được mươi bước thì chân bị lún sâu, bước không nổi nữa. A Tan ra lệnh cho binh Đại-lý lách qua xác Lôi-kỵ đuổi theo gã mục đồng. Nhưng y với trâu đã trở vào trong làng.

Bọn binh Đại-lý ào tới cổng làng, thì một tiếng lệnh đánh lên, tên từ trong làng bay ra vun vút, mười mấy gã bị trúng tên ngã vật xuống ruộng.

Trời đã tối hẳn. A Tan đành trở ra bãi đóng quân. Y sai hai Kỵ-mã phi tiễn báo cho Ngột-lương Hợp-thai biết tình hình, rồi truyền lệnh qua đêm.

Mọi việc xong xuôi, y vào soái lều ngủ. Nhưng vừa mở cửa, thì y giật mình, vì gã cỡi trâu, mặc áo tơi đã ngồi trong trướng từ bao giờ. Biết đây là một kỳ nhân dị sĩ, y bình tĩnh hỏi:

- Tôn giá là ai? Vào đây có việc gì? Với võ công của tôn giá, thì địa vị đâu có nhỏ? Xin tôn giá cho biết mặt được không?

Người mặc áo tơi mở nón. Bất giác A Tan ngẩn người ra, vì hắn rất trẻ. Hắn trả lời A Tan bằng tiếng Mông-cổ:

- Tôi là ai, tướng quân không cần biết đến. Tôi đến đây, vì muốn được tướng quân chỉ giáo cho mấy chiêu.

Tên Trịnh Ngọc đã đến, y chỉ người mặc áo tơi:

- Vũ-Uy vương! Ta đã biết người trong những ngày ở Thăng-long. Người đừng hòng qua mắt ta.

Trong khi Vũ-Uy vương đối thoại với A Tan, thì gã vệ sĩ của y đã báo động. Quân sĩ đốt đuốc, bao vây soái liều, reo hò. A Tan nghĩ rất nhanh:

- Tên này chỉ huy lực lượng phòng thủ biên giới của An-Nam đây. Tất cả những trò ma, trò quỷ ban ngày đều do y bầy ra. Ta phải bắt y, thì mới mong bình định vùng biên giới này.

Nghĩ vậy y hít hơi, phát một chưởng bằng tất cả công lực hướng Vũ-Uy vương. Vũ-Uy vương nhận ra đó là chiêu Đông-hải lưu phong của phái Đông-a. Vương cười nhạt, cũng trả bằng chiêu Đông-hải lưu phong. Hai chưởng chạm nhau, phát thành tiếng lớn. Cả hai cùng bật lui, đứng gườm gườm nhìn nhau. Vũ-Uy vương xoa tay cười nhạt:

- Này tướng quân! Tôi biết tướng quân học võ với Hốt Tất Liệt. Mà Hốt Tất Liệt lại học với thái thúc tổ (cụ chú) Trần Thủ-Huy của tôi. Như vậy võ công của tướng quân là võ công của nhà tôi. Không biết khi truyền thụ võ công cho tướng quân, Hốt Tất Liệt có nói về môn quy của bản phái không? Điều thứ mười nói gì nhỉ?

- Dĩ nhiên là có.

- Xin tướng quân nhắc lại nghe thử.

- « Đệ tử Đông-a nào dùng võ công chống lại chủ đạo của tộc Việt, thì toàn môn phái phải tru lục ».

- Thế sao tướng quân lại dùng võ công này đánh Đại-Việt?

- Vương gia há không biết rằng luật nhà thua luật làng. Luật làng thualuật nước sao? Môn quy của phái Đông-a chỉ là luật nhà. Còn tôi mang quân sang đây là tuân luật nước. Vậy vương gia hãy đem quân đầu hàng, thì tính mệnh được bảo toàn, mà cái tước vương cũng không mất.

- Chúng ta ai cũng vì nước mình. Ta xin lĩnh giáo tướng quân ít chiêu.

Nói vừa dứt vương đã phát chiêu tấn công. A Tan bình tĩnh trả đòn. Dưới ánh đuốc chập chờn, hai người dùng cùng một thứ võ công đấu với nhau. Bàn chung, về công lực, thì Vũ-Uy vương tuổi còn trẻ, không thể nào thắng nổi A Tan, y đã đi vào tuổi 30. Nhưng về chiêu số, thì A Tan học lại của Hốt Tất Liệt. Mà Hốt Tất Liệt lại học từ phò mã Trần Thủ-Huy... Võ công của Thủ-Huy là võ công Đông-a hồi gần trăm năm trước, sao có thể so sánh với võ công Đông-a hiện thời ; đã được Nguyên-tổ Trần Lý cùng Phùng Tá-Chu, Nam-thiên ngũ long sửa đổi đi nhiều. Vì vậy trải qua hơn trăm hiệp, hai bên vẫn bình thủ. Quân sĩ say mê đứng xem trận đấu kinh khủng mà chưa bao giờ họ thấy.

Biết không thắng được A Tan, Vũ-Uy vương đánh liền ba chưởng như vũ bão, rồi tung mình chạy. Chỉ nhấp nhô mấy cái, vương đã biến vào rừng.

A Tan lệnh cho quân sĩ đi ngủ.

Quân sĩ vừa riu riu ngủ, thì trong rừng tre vang lên tiếng trống thúc, tiếng người reo. Tưởng quân Việt tập kích, quân Mông-cổ choàng dậy, mặc áo giáp, đốt đuốc chờ đợi. Nhưng sau hơn giờ, thì tiếng trống, tiếng reo lại im bặt. Rừng núi vọng về tiếng dế kêu não nuột. Thỉnh thoảng, đâu đó tiếng cú kêu sầu thảm.

A Tan ra lệnh cho quân sĩ mặc áo giáp mà ngủ. Khoảng hơn giờ sau, mọi người vừa riu riu, thì có tiếng la hoảng, tiếng ngựa hý. Quân sĩ choàng dậy đốt đuốc lên, tất cả bật ngửa ra rằng, hơn hai chục chiến mã, bị một bọn vô hình nào đó đột kích bắn trúng bụng. A Tan cay đắng nhìn những thần mã từng tung hoành trên vùng Thảo-nguyên, trên chiến trường Tây-vực, trên khắp lãnh thổ Trung-quốc... oai hùng biết bao. Thế mà bây giờ bị những địch thủ không hình, không bóng bắn chết trong trường hợp không minh bạch. Y ra lệnh cho quân sĩ thắp đuốc tới sáng.

Đội quân Lôi-kỵ bách chiến, bách thắng, sau một ngày dài di chuyển mệt mỏi, rồi trải qua một đêm căng thẳng... Người, ngựa đều bải hoải. A Tan ra lệnh cho quân Đại-lý tiến quân vào tàn sát ngôi làng khốn nạn. Đầu tiên một Bách-phu đi tiên phong, vào trong làng dễ dàng. Nhưng hơn một khắc, không thấy chúng trở ra báo tin. Sốt ruột, y cho Lôi-kỵ tràn vào, thì trong làng không một bóng người, không một bóng thú. Chỉ có xác bọn Lôi-kỵ, bọn lính Đại-lý. Một tên lao binh duy nhất bị trói vào gốc cây cau còn sống. Y thuật:

- Khi tôi bị bắt vào làng, thì trẻ con, ông già bà cả yếu đuối đã di tản đi hết. Còn lại, già, trẻ, trai, gái đều cầm vũ khí chiến đấu. Chúng được chỉ huy bởi hai mươi Ngưu-binh, toàn là nhóc con, chưa đứa nào tới hai chục tuổi.

Dường như chưa hết sợ, y tiếp:

- Bọn binh lính thì không đến nỗi nào. Nhưng tụi dân chúng, nhất là mấy con mụ đàn bà. Chúng hung dữ kỳ lạ. Không có vũ khí, chúng dùng gậy tre, dùng dao phay, dùng cuốc. Nhưng chúng đánh có phương pháp. Chúng liều lĩnh vô cùng. Có đứa bị chặt cụt một tay, bị đâm lòi ruột, mà chúng vẫn lăn xả vào mà chém túi bụi.

A Tan thấy trên bức tường của căn nhà cháy có tờ giấy, trên viết bằng chử Hán. Y nhẩm đọc:

« Thống lĩnh hiệu binh Hữu Thánh-dực và đội võ sĩ Trấn Quốc của nước Đại-Việt là Hoàng Vui Gửi tướng tiên phong Mông-cổ là A Tan.

Ta nghe, phàm đạo làm tướng thì tai nghe tám hướng, mắt nhìn mười phương. Lại phải biết mình, biết người. Nay mi thân làm đại tướng, mà không biết ta là ai, không biết khả năng quân ta ; mi cũng không tự biết Lôi-kỵ vô dụng đối với binh ta. Mi vừa nhập biên, ta chỉ dùng mấy đứa nhãi con, cũng làm cho hùng binh của mi mất ăn, mất ngủ. Lại giết cả nghìn tên dễ dàng như chà kiến cỏ!

Mi đã sợ ta chưa?

Ngày mai quyết tái chiến ».

Dưới vẽ hình một đứa trẻ cỡi trâu méo mặt, đang cầm...cò đái.

A Tan tức quá, y ra lệnh đốt tất cả những căn nhà trong làng, cho quân nấu cơm ăn, chôn xác tử sĩ, rồi lên đường. Đến giờ Ngọ, thì đi qua một khu khí hậu ấm áp, cỏ non hai bên đường mọc xanh mướt. Đám chiến mã muốn ngừng lại gặm ít miếng, nhưng bọn kỵ mã không cho. Giữa lúc đó tên Bách-phu trưởng tiền phong cho người báo:

- Con đường phía trước đầy chông với chà. Xin tướng quân định liệu.

A Tan truyền quân tạm ngừng lại. Chiến mã được ăn cỏ xanh tươi, chúng hý lên những tiếng vui mừng. A Tan phi ngựa lên quan sát: Chông chà rất đơn sơ, nhưng nhiều vô tận. Y ra lệnh cho lao binh lên nhổ chông, kéo chà, mở đường. Tuy lao binh đông. Nhưng con đường hẹp, thành ra cuộc gỡ chướng ngại vật phải mất hơn giờ mới xong.

Giờ Mùi, cánh quân của A Tan gặp cánh quân của Triệt Triệt Đô. Vừa gặp nhau, Triệt Triệt Đô đã văng tục, chửi luôn miệng, chửi liên tu bất tận. Thì ra đêm qua cánh quân của Triệt Triệt Đô cũng gặp trường hợp tương tự. Triệt Triệt Đô ngoác mồm ra:

- Tổ mẹ nó. Từ lúc nhập Việt đến giờ không hề thấy một tên chó Việt nào cả. Cũng chưa được bắn một mũi tên, đánh một chiêu võ, màhao mất hơn trăm Lôi-kỵ, mấy trăm binh Đại-lý. Bây giờ tôi mới biết những trò ma, trò quỷ này là mưu kế của tên Hoàng Vui. Tổ bà nó, tôi mà bắt được tên Vui-rỗ, thì tôi sẽ nhét vào miệng nó mười bãi phân ngựa.

A Tan thuật lại trận đấu giữa y với Vũ-Uy vương, rồi kết luận:

- Vũ-Uy vương là người có võ công cao nhất trong đám thân vương trẻ mà công lực đã như vậy. Tôi nghe nói An-Nam còn có những cao thủ như Trần Tung, Trần Khánh-Dư, Lê Tần, Phạm Cụ-Chích, Trần Tử-Đức bọn này võ công cao hơn Vũ-Uy vương nhiều. Hà! Đáng sợ thực.

Tên Trịnh Ngọc tâng công với chủ:

- Võ công bọn ấy cũng chưa đáng sợ. Đáng sợ là bọn Nam-thiên ngũ long. Năm con hồ ly này võ công cao không biết đâu mà lường. Ấy là chưa kể Đại-Việt thất tuyệt gồm Đặng Kiếm Anh, Đặng Kiếm-Hùng của phái Tản-viên ; Lê Ngân-Sơn, Lê Kim-Sơn của phái Sài-sơn ; Tiêu-Dao, Lung-Á của phái Yên-tử ; Y-Sơn của phái Tiêu-sơn. Ngoài ra còn Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm của phái Mê-linh là Vô-Ảnh, Vô-Sắc, Vô-Huyền.

Mặt A Tan, Triệt Triệt Đô cau lại, tỏ vẻ lo lắng.

Tên Trịnh Ngọc ra vẻ ta biết nhiều:

- Vùng từ biên giới tới Bình-lệ-nguyên do Vũ-Uy vương trấn nhậm. Tất cả những trò gây tổn thất cho ta, là do đội võ sĩ Trấn-quốc của y. Bọn trẻ con mà đã thế, thì các hiệu binh của y sẽ gây ra nhiều trò quỷ quái không biết đâu mà lường. Nhị vị tướng quân phải cẩn thận.

Triệt Triệt Đô, A Tan truyền đóng quân lại, sai Kỵ-mã phi tiễn báo cáo tình hình cho Ngột-lương Hợp-thai.

Thình lình chiến mã, cũng như lừa, trâu, bò kéo xe, đều hý, rống lên thảm thiết; rồi con thì lồng lộn, con thì ngã lăn ra xùi bọt mép, con thì dẫy tê tê. Bọn Lôi-kỵ kinh hãi, chúng mở to mắt ra nhìn những con vật thân yêu. Y sĩ phụ trách thú vật chạy tới, chạy lui, kéo miệng thú ra quan sát. Sau khi khám nghiệm mươi con, hắn đã tìm ra nguyên do: Chúng bị ngộ độc.

Quân luật Mông-cổ định rằng, nếu chiến mã ngộ độc chết, thì lao binh phụ trách chăn ngựa bị tử hình. Đám lao binh mặt nhìn mặt, chúng đều biết rằng nếu đám lừa ngựa này chết, thì tính mệnh chúng khó toàn.

Triệt Triệt Đô quát lên:

- Nhất định trong đám lao binh có gian tế của Nam-man. Tụi bay phải tìm ra thủ phạm, bằng không tao sẽ giết hết bọn bay.

Y quát lớn:

- Tập trung bọn chăn ngựa lại.

Nhanh chóng, Kỵ-mã, binh Đại-lý dồn đám lao binh chăn ngựa vào một khu. Triệt Triệt Đô hỏi:

- Đứa nào trong chúng mày làm gian tế?

Đám lao binh quỳ gối khóc lóc:

- Bọn tiểu nhân đều theo quân mấy năm nay. Làm sao có quen biết với Nam-man?

Một lao binh chỉ vào ba gã họ Trịnh:

- Nghi can duy nhất trong vụ này chỉ có thể là ba gã họ Trịnh. Vì chúng là người Việt, biết nói tiếng Việt. Có lẽ trong thời gian bị giam ở Thăng-long, chúng đã được An-Nam phong chức tước?

Triệt Triệt Đô đưa mắt nhìn ba gã họ Trịnh. Trịnh Ngọc kinh hãy, y phân trần chỉ vào Trịnh Đức:

- Hai anh em chúng tôi đều là quan chức Thiên-triều, còn thằng Long là con tôi, lớn lên ở Mông-cổ. Chúng đâu có thể phản, mà theo bọn An-Nam?

Nhìn con ngựa của mình đang nằm dài ra, xùi bọt mép, bốn vó dãy dụa, tỏ vẻ đau đớn cùng cực. Triệt Triệt Đô kề đao vào cổ Trịnh Long, nói với Trịnh Ngọc:

- Mày lý luận không vững. Mày bảo mày không phản Mông-cổ. Thế tao hỏi mày câu này: Đến nước mày, vua mày, làng xóm mày mà mày còn phản được, thì mày làm gì còn lương tâm? Nếu tao hô ba tiếng, mà mày không nhận thì tao chặt một tay con mày.

Y hô:

- Một.

- Xin tướng quân xét cho.

- Hai.

- Chúng tôi không hề đánh thuốc độc ngựa.

- Ba.

Ánh đao khoa lên, tiếp theo tiếng rú khủng khiếp.

Triệt Triệt Đô đang cáu, giận cá chém thớt, y định đổ cái hận lên đầu mấy tên chó săn Việt, thì quân báo:

- Thưa tướng quân, phía trước có một chiếc xe hai ngựa đang chạy tới. Người đánh xe xưng là thầy lang chuyên chữa ngựa trúng độc. Thầy tên Đỗ Thanh. Xin tướng quân định liệu.

Triệt Triệt Đô mừng chi siết kể, y truyền lệnh:

- Dẫn thầy lang tới.

Thầy lang Đỗ Thanh là một trung niên nam tử, dáng người thanh nhã. Tên Trịnh Ngọc lại được dẫn tới dịch. Thầy xá Triệt Triệt Đô, rồi nói:

- Lương-y Đại-Việt xin ra mắt tướng quân. Tôi biết ngựa của quý quốc đi qua khu cỏ độc, ắt mắc nạn nên đến đây trình với tướng quân.

Thấy phong tư Đỗ Thanh tiêu sái, tóc đen óng ánh, dáng đi nhẹ nhàng, nói năng kiêu kỳ: Tự gọi nước mình là Đại-Việt, không gọi Mông-cổ là Thiên-quốc, mà gọi là quý quốc; Triệt Triệt Đô biết đây là người có tư cách khác phàm, chứ không phải thầy lang bình thường ; cũng không phải bọn mãi quốc như ba gã họ Trịnh. Y dùng lời ngọt ngào:

- Ngựa, thú của ta đã trúng độc hết rồi. Nhà thầy làm thế nào mà biết trước?

- Thưa tướng quân, khi quý-sứ sang chiêu dụ triều đình hàng, thì các quan Đại-Việt chia làm hai phe. Một phe gồm đa số là nho gia, muốn Đại-Việt theo gió đầu hàng, để dân chúng được sống yên những ngày Nghiêu, tháng Thuấn. Tôi thuộc phe này. Một phe nữa nhất định chống đối. Gây cuộc binh đao. Tôi bèn cáo quan trở về. Hôm qua tôi thấy hoàng tử Duy tước phong Vũ-Uy vương chỉ huy quân sĩ làm chướng ngại vật, rồi lại đem thuốc độc tưới lên cỏ...

Triệt Triệt Đô tỉnh ngộ:

- Mình đáng chết thực. Khi thấy giặc bầy chướng ngại vật thô sơ, mình cứ tưởng chúng ngu đần. Thì ra chúng bầy với mục đích bắt mình dừng quân, khiến ngựa ăn cỏ non...Mà cỏ non đó, chúng tưới thuốc độc lên.

Nghĩ vậy y hỏi:

- Nhà thầy biết chữa ngựa trúng độc không?

- Tôi là một ngự y, làm viện trưởng Thái-y viện, thì cái thứ thuốc độc này...giải đâu có khó.

- Nếu thầy cứu được đám ngựa của ta, ta sẽ xin hoàng đế Thiên-triều phong cho thầy tước hầu, tước bá.

- Tôi tuy cáo quan về điền dã, nhưng không có lòng phản triều đình Đại-Việt. Tôi không muốn làm quan với quý quốc. Tôi ra đây chữa ngựa, chỉ với mục đích xin tướng quân tha cho dân làng tôi. Bởi tôi nghe, khi quý-binh đến đâu, mà dân chúng đầu hàng thì tha. Còn như chống lại thì bị giết tuyệt.

- Được, ta sẽ tha cho cả làng thầy.

- Dạ, xin cho cả tổng.

- Được, ta tha cho cả tổng.

Đỗ Thanh móc trong cái tay nải đeo trên lưng lấy ra một bình lớn. Ông ta trao cho Triệt Triệt Đô một viên:

- Xin tướng quân nhét vào hậu môn chiến mã. Trong nửa khắc, chúng sẽ sẽ khỏi ngay.

Triệt Triệt Đô làm theo. Quả nhiên lát sau, chiến mã của y đứng dậy, hí lên một tiếng, khỏe mạnh như thường. Thầy lang trao thuốc cho bọn lao binh chăn ngựa, nhét hậu môn cho tất cả thú vật. Hai khắc sau, tất cả thú vật đều khỏe mạnh.

Triệt Triệt Đô lấy một nén vàng, trao cho Thanh:

- Gọi là chút ít, tặng ông đấy.

Thầy lang Đỗ co tay lại. Ông ta vái dài:

- Kẻ thô lậu này chữa ngựa cho quý-binh, chỉ mong tìm cái lẽ an lành cho dân làng. Rất mong tướng quân hứa không giết dân tổng này.

Triệt Triệt Đô dơ tay hứa. Thầy lang Đỗ trao cho lao binh chăn ngựa một túi thuốc, dặn:

- Chiến mã tuy được trị khỏi, nhưng chưa tuyệt nọc; anh em giữ bọc thuốc này, sáng mai, lại cho mỗi chiến mã uống một viên, thì không còn sợ gì nữa.

Nói dứt, thầy vái Triệt Triệt Đô, rồi đánh xe vào một con đường nhỏ.

Chiều hôm đó, thì đại quân Ngột-lương Hợp-thai tới. Y hỏi Trịnh Ngọc:

- Vùng này tên là gì?

- Thưa là Thảo-lâm.

Ngột-lương Hợp-thai truyền quân đóng trên một vùng dài ven rừng. Khác với hôm qua, trời mưa phùn. Hôm nay vùng này trời nắng ráo. Cây cỏ về mùa Đông khô héo. Ngột-lương Hợp-thai họp các tướng lại để nghị kế, tìm phương cách đối phó với trường hợp tương tự có thể sẽ gặp.

Tế tác báo cho biết:

" Vua An-Nam, cùng đại quân khoảng hai vạn, gồm bộ binh, Kỵ-binh, Ngưu-binh. Tất cả dàn ra tại Bình-lệ nguyên sẵn sàng chiến đấu".

A Truật nghi ngờ:

- Bọn An-Nam có ngu không? Chúng đã biết quân ta hùng mạnh, vô địch. Quân số của ta tới mười vạn. Thế mà vua chúng lại dàn hai vạn ra mong đối trận với ta. Không lẽ chúng muốn tự tử?

Phò mã Hoài-Đô cẩn thận hơn:

- Thái sư phải cẩn thận lắm mới được. Vua An-Nam là người trí dũng hơn đời. Y trao quyền Tiết-chế cho người cháu là Hưng-Đạo vương. Hưng-Đạo vương vừa có tài thao lược như Khương Thái-công, vừa có tài dùng binh như Tôn Vũ, vừa mưu trí như Gia-cát Lượng. Chúng đã biết quân ta tinh nhuệ, hùng tráng, đông gấp bội, thế mà chúng dám dàn ra đối trận với ta, ắt chúng có mưu kế gì đây.

Ngột-lương Hợp-thai thấy lời bàn của Hoài-Đô có lý. Nhưng y tự tin:

- Dù chúng có mưu gì chăng nữa, với sức mạnh của Lôi-kỵ, ta há sợ chúng sao?

Sau khi ra lệnh cho quân sĩ canh phòng cận thận. Y truyền đóng trại qua đêm. Trái với dự đoán rằng thế nào quân An-Nam cũng quấy rối như đêm trước. Nhưng, cho đến nửa đêm, tình hình vẫn yên tĩnh. Toàn quân chìm vào giấc ngủ.

Giờ Tý, thình lình khu đóng quân của A Truật vang lên tiếng reo hò, tiếng la hét, tiếng vũ khí chạm nhau. Ngột-lương Hợp-thai cùng các tướng bật dậy, ngồi chờ. Hơn giờ sau, quân báo:

- Có khoảng hơn hai trăm con trâu, sừng buộc dao nhọn, xông vào trại húc túi bụi. Khi quân đốt được đuốc lên, lập được trật tự, thì đoàn trâu đã biến vào trong rừng. Hơn bốn trăm binh sĩ vừa chết, vừa bị thương. Bọn chỉ huy trâu toàn nhóc con.

Ngột-lương Hợp-thai uất khí lên cổ. Trước khi tiến quân, y đã được Tế-tác báo cho biết rằng An-Nam có Ngưu-binh. Thuật dùng Ngưu-binh do vua Đinh Tiên-Hoàng, nguyên là trẻ mục đồng xuất thân đã nghĩ ra. Ngưu-binh xử dụng trâu lâm chiến lợi hại vô cùng. Thời Tống Thần-tông bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang đánh đã bị Ngưu-binh làm cho khốn đốn bao phen. Y khinh thường, cười rằng Ngưu-binh sao có thể chọi với Lôi-kỵ của y. Bây giờ, qua một cuộc đột kích, y mới cảm thấy nguy hiểm đang chờ đợi.

Quân trình cho Ngột-lương Hợp-thai một lá cờ Cửu-mao đại đạo của Mông-cổ:

- Thưa Thái-sư, lá cờ này là đạo quân tướng Triệt Triệt Đô bị giặc lấy trộm đêm qua. Hôm nay, một Ngưu-binh đột nhập trại ta bỏ lại. Trên cờ có bức thư gửi Thái-sư.

Ngột-lương Hợp-thai cầm lên đọc:

« Đô-thống Hoàng Vui, thống lĩnh hiệu binh Hữu Thánh-dực, kiêm đội võ sĩ Trấn Quốc nước Đại-Việt.

Kính gửi:

Ngài Kiểm-hiệu Thái-sư, Thống lĩnh hành quân chinh thảo Nam-thiên, Tứ-xuyên vương của đại quốc Mông-cổ.

Từ lúc đại binh của ngài nhập biên, Vui này chỉ mới được giao hảo ít trận nho nhỏ với hai tướng tiên phong A Tan, Triệt Triệt Đô. Hôm nay, mới được hân hạnh cho bọn trẻ con ra mắt vương gia.

Lát nữa đây, tôi sẽ cho chúng đốt pháo cháo mừng quân Thiên-triều.

Hẹn ngày mai gặp lại ngài trên sông ».

Dưới vẽ hình một đứa trẻ méo miệng, đang cầm...cò đái.

Trọn đời chinh chiến, từ Đông sang Tây, từ Bắc đến Nam, chưa bao giờ Ngột-lương Hợp-thai lại bị chọc giận đến như thế này. Y nghiến răng kèn kẹt. Tên Trịnh Ngọc được dịp khoe tài:

- Thưa Thái-sư. Cái tên Vui này nói được, thì y làm được. Y hẹn đốt pháo mừng Ngột-lương Hợp-thai cùng các tướng đang bàn luận, thì có tiếng rít kéo dài vọng lại, rồi ba tiếng nổ rung chuyển không gian. Trên trời, ba trái cầu lửa nổ tung, tỏa ra ánh sáng xanh, tím, vàng, đỏ.

Binh sĩ Mông-cổ la hoảng:

- Lôi tiễn.

Tiếp theo, mỗi loạt hàng trăm trái Lôi-tiễn từ trong rừng bắn ra, nổ chụp xuống đầu quân Mông-cổ. Rừng mùa Đông toàn cây lá khô héo, bị trúng Lôi-tiễn, bốc cháy. Trong khoảnh khắc, toàn khu đóng quân biến thành một biển lửa. Ngựa hý, quân la hoảng, người người ôm đầu chạy ra khỏi khu rừng khô.

Quân Mông-cổ cũng có Lôi-tiễn, nhưng giữa đêm tối, chúng không biết quân Việt ở đâu để phản pháo! Trong khi quân Việt đã tính toán, nhắm mục tiêu từ trước.

Tên Trịnh Ngọc cố vấn:

- Đó, tên Vui hẹn đốt pháo mừng Thái-sư, thì y giữ lời hứa cho Lôi-tiễn nã. Tôi nghĩ ngày mai y sẽ bầy trò quỷ trên sông chờ ta.

- An-Nam cũng có Lôi-tiễn ư?

- Lôi-tiễn gốc từ thời vua Lý Nhân-tông, do Tây-hồ thất kiệt và Long-biên ngũ hùng chế ra trong trận đánh Ung-châu. Sau phò mã Trần Thủ-Huy truyền cho Mông-cổ ta. Tuy nhiên, trên trăm năm qua, Lôi-tiễn Đại-Việt đã được sửa chữa, tầm bắn xa hơn nhiều, lực sát hại ác liệt hơn nhiều.

Cuộc nã Lôi-tiễn cho đến khi trời rạng Đông mới dứt.

Triệt Triệt Đô báo:

- Cuộc nã Lôi-tiễn của Nam-man đêm qua, làm thiệt mạng gần nghìn Lôi-kỵ, hơn nghìn binh Đại-lý, và hai nghìn lao binh. Chiến mã bị chết, bị thương hơn nghìn. Còn bị thương thì nhiều lắm, chưa kiểm kê xong. Theo như tin thu được, thì bọn quấy rối ta suốt từ khi nhập Việt đến giờ, cũng như bọn nã Lôi-tiễn do con thứ của vua An-Nam là Vũ-Uy vương chỉ huy, nhưng người thi hành là Đô-thống Hoàng Vui.

Ngột-lương Hợp-thai cảm thấy cuộc chinh tiễu An-Nam này không dễ dàng như Mông-Kha, Hốt Tất Liệt liệu. Với chiến thuật ẩn ẩn, hiện hiện như ma, như quỷ. Với địa thế này, thì đoàn Lôi-kỵ e không trổ được thần oai, rồi đến kiệt lực mà chết.

Hôm ấy là ngày 10 tháng Chạp, năm Đinh-Tỵ (15-1-1958), sau khi Tế-tác báo cáo tình hình:

- An-Nam mới điều lên hạm đội Âu-Cơ, dàn ra trên sông, phía sau Bình-lệ-nguyên.

Ngột-lương Hợp-thai tập trung các tướng, ban lệnh:

- Con bà nó! Bọn man này khôn thực. Không biết tại sao chúng lại tinh thông binh pháp của Thành-cát Tư-hãn? Binh pháp của đức Thái-tổ là luôn bắt địch chấp nhận giao tranh trên một chiến trường do ta chọn. Thế mà bây giờ nó dàn trận bên kia sông, bắt ta phải chấp nhận địa thế chúng muốn. Được! Ta mà có sợ chúng, thì không còn là tướng Mông-cổ nữa.

Y ra lệnh cho quân đẳng chuối, luồng, nứa, đóng bè. Không đầy hai ngày, quân làm được số bè có thể chở một lúc hai nghìn người ngựa. Toàn quân chuẩn bị vượt sông.

Ngày 11 tháng Chạp năm Đinh-Tỵ, nhằm niên hiệu Nguyên-Phong thứ 7 đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.16-1-1258) Sáng sớm Ngột-lương Hợp-thai, họp chư tướng tại Thảo-lâm ban lệnh. Đầu tiên y gọi Triệt Triệt Đô, A Tan:

- Quân Nam nhiều hay ít, thiện chiến hay không ta không cần biết tới. Kinh nghiệm hồi đánh Tây-vực. Quân Tây-vực hùng mạnh biết mấy! Đông biết mấy! Thế nhưng tiên phụ (chỉ Tốc Bất Đài) cùng thúc phụ (chỉ Triết Biệt) chỉ có 3 vạn Lôi-kỵ, nhưng cứ rượt theo vua của chúng, bất kể ngày đêm khiến y không thể ngừng lại ban lệnh cho các chư hầu chống ta. Bây giờ, vua An-Nam tự đem thân lên Bình-lệ-nguyên. Ta phải đánh tan cánh quân của y, rồi đuổi bắt cho được y mới thôi. Y bị bắt rồi, thì cuộc bình định coi như xong. Nhưng có một điều phải nhớ rằng: Ta chỉ sở trường về kỵ binh, bộ chiến. Còn thủy chiến, thì ta không phải là đối thủ của chúng. Thế nhưng bọn hạm đội Âu-Cơ lại lên bờ đối trận thì quả thực chúng quá ngu.

Y gọi A Tan:

- Ta trao cho tướng quân hai Thiên-phu Lôi-kỵ, ba Thiên-phu binh Đại-lý. Tướng quân đem quân vượt sông. Sau khi sang sông, án binh. Đợi lúc Triệt Triệt Đô đánh quân Việt ở Bình-lệ-nguyên thì tướng quân đem quân tấn công vào phòng tuyến của hạm đội Âu-Cơ. Phải cố cướp lấy thuyền, như vậy vua tôi của chúng không còn đường rút chạy, ắt bị ta bắt sống. Ta sẽ cho ba Thiên-phu Lôi-kỵ đi sau tiếp ứng. Trong ba Thiên-phu trưởng ta cho theo người, thì Tăng Phúc, Triệu An là người Hán. Cả hai thuộc phái Trường-bạch. Độc công của chúng vô địch thiên hạ. Thứ ba là Thiên-phu trưởng Di Hòa (Djihoark) nức danh về tiễn thủ.

Y gọi Triệt Triệt Đô:

- Ta trao cho tướng quân ba Thiên-phu Lôi-kỵ, ba Thiên-phu binh Đại-lý. Tướng quân đem quân vượt sông. Vượt sông rồi, người tìm địa thế thuận lợi mà bầy trận, cứ chần chờ, như vậy ắt chúng sẽ xua quân tấn công tướng quân. Bấy giờ tướng quân mới tung Lôi-kỵ đánh tan chủ lực chúng. Trong khi đó A Tan chọc thủng trận, cướp lấy thuyền của chúng. Dù không cướp được thì cũng ngăn không cho chúng trở về thuyền. Ta sẽ đem quân sang tiếp ứng.

Y nhấn mạnh:

- Trong tất cả 50 Thiên-phu trưởng Lôi-kỵ của ta, thì ba Thiên-phu trưởng theo tướng quân thuộc loại ưu tú nhất. Thiên-phu trưởng Hòa Khâm (Hoarkamp) là cháu của Thân-vương Bác Nhĩ Truật, nức danh đệ nhất kỵ mã Mông-cổ. Thiên-phu trưởng Sung-Di (Jungit) là cháu của Thân-vương Triết Biệt. Y là đệ nhất tiễn thủ của ta. Thứ ba là Thiên-phu Vương Huy. Y là người Hán, võ công Liêu-Đông của y cao thâm không biết đâu mà lường.

Y đứng dậy nói với phò mã Hoài-Đô:

- Phò mã tiến xuống hạ lưu, vượt sông đánh vào hậu quân chúng, rồi chặn đường rút lui. Chúng mất thuyền, bị đánh đầu, chặn cuối, không còn thuyền rút chạy, sẽ bị ta bắt hết.

Y dặn Triệt Triệt Đô, A Tan, Hoài-Đô lần cuối:

- Tên mặt rỗ Hoàng Vui hẹn tái ngộ với ta trên sông. Vậy khi vượt sông các người phải cẩn thân bằng không sẽ trúng quỷ kế của y.

Triệt Triệt Đô độ giang trước. Người ngựa rầm rập di chuyển. Chuyến đầu tiên sang sông gồm một Thiên-phu Lôi-kỵ, một Thiên-phu Đại-lý. Viên Thiên-phu này nguyên là người Hán theo Mông-cổ trên mười lăm năm. Y có tên Vương Huy. Tuy võ công Vương Huy cao cường, nhưng bè của y vẫn có 18 võ sĩ theo bảo vệ, và cũng để uy hiếp tướng địch. Ngột-lương Hợp-thai sai tên Trịnh Đức theo làm thông dịch. Khi bè bắt đầu rời bến, thì từ thượng lưu, một con thuyền bậc trung, dương buồm đang chạy đến. Tiếng nhạc véo von từ trong con thuyền vọng ra, nghe rất lọt tai. Tên Trịnh Đức cảnh cáo Vương Huy:

- Tướng quân phải cẩn thận. Bọn An-Nam thường bầy trò ma trò quỷ để hại ta. Giữa lúc đại quân ta di chuyển ồn ào thế này, nếu không phải quan quân Đại-Việt, thì đùứa nào dám thả thuyền tấu nhạc? Chắc là trò ma của tên Vui-rỗ!

Đến đó, một tiếng pháo nổ, rồi trên cột của con thuyền kéo lá cờ, trên có hình đứa trẻ chăn trâu đang cầm cò... đái, với hàng chữ:

« Đại-Việt, Đô-thống Hoàng, Thống lĩnh hiệu binh Hữu Thánh-dực, Kiêm chỉ huy đội võ sĩ Trấn-quốc » Vương Huy ra lệnh cho tên chỉ huy 18 võ sĩ với mấy Lôi-kỵ:

- Đem bè chặn ngang con thuyền kia, rồi các người nhảy lên cướp thuyền, bắt sống cho được tên Vui-rỗ, nộp Thái-sư. Đừng giết nó.

Bè ngăn trước con thuyền. Thuyền, bè đụng vào nhau đến rầm một cái. Chín võ sĩ tung mình lên trên nóc thuyền. Binh, binh, binh ba tiếng, mui thuyền bay tung lên cao rồi rơi xuống sông. Bọn võ sĩ còn đang lơ lửng trên không, thì chín cái chài từ trong lòng thuyền tỏa ra, chụp gọn chúng vào trong. Bọn chúng rơi xuống thuyền như những trái mít rụng. Hòa Khâm nhìn rõ chín người tung lưới là chín thiếu nữ tuổi còn trẻ. Y kinh hãi kêu lên:

- Võ công Đông-a, Thiên-la thập bát thức.

Y lại ra lệnh cho bọn võ sĩ nhảy lên thuyền. Chín võ sĩ như chín con hạc tà tà đáp vào mạn thuyền. Chín thiếu nữ cùng bật lên tiếng cười dòn như thác nước đổ, chín cái lưới lại tỏa ra. Bọn Lôi-kỵ chỉ chờ có thế, chúng hướng các thiếu nữ buông tên. Nhanh như chớp, chín thiếu nữ giật tay một cái, chín võ sĩ đã bị bắt, bị đưa lưng ra đỡ tên. Cũng may, chín võ sĩ đều mặc áo giáp. Kịch, kịch, kịch, tên rơi xuống sông. Đến đây thuyền đã rời xa bè. Vương Huy hò hét ra lệnh băén tên, chèo bè đuổi theo. Nhưng thuyền chạy vun vút về phía hạ lưu. Tên bị ghim vào khiên-mây. Phút chốc mất hút, đâu đó, tiếng tiêu véo von vọng lại, lẫn với tiếng Mông-cổ:

- Lôi-kỵ vô địch, nhưng khi đến Đại-Việt thì thành tồi kỵ.

Vương Huy giận cành hông, y văng tục liên tiếp.

Thình lình dây cột bè của y kêu lên những tiếng phựt... phựt..., rồi bị đứt. Những cây chuối rời nhau tản ra. Bao nhiêu người trên bè bị ngã xuống sông hết. Mông-cổ là sắc sân sống trên vùng Thảo-nguyên, chỉ biết cỡi ngựa, săn bắn, nào có biết bơi? Vì vậy những người trên bè bị chìm, bị nước cuốn đi. May mắn Vương Huy là người Hán, vùng sông Hoài, nên y biết bơi. Y bám tay vào một cây chuối. Một cái bè khác chèo lại cứu y. Y giật tay, vọt người lên, tà tà đáp vào vè. Y ngoác mồm chửi:

- Tụi quân khốn nạn, dùng dây cột không chắc...

Lại phựt...phựt... rồi bè của y lại bị tan.

Đám quân trên bè này toàn là người Mông-cổ, chúng lại mặc áo giáp sắt, đeo nhiều chiến cụ, nên bị chìm lỉm. Vương Huy bám vào cây chuối, bơi lóp ngóp, rồi cũng như lần trước, y vọt người lên một cái bè khác. Bây giờ y mới chú ý nhìn: Trên mặt sông có hàng mấy chục bè bị đứt dây. Một tên lao binh vớt sợi dây cột bè trình cho y. Y giật bắn người lên, vì rõ ràng dây bị vết dao cắt chứ không phải bị dứt vì sức nặng chuyên chở.

Thình lình ầm...ầm...năm đứa trẻ từ dưới nước vọt mình lên, mỗi đứa sớt một Lôi-kỵ, rồi lăn xuống sông biến mất. Bấy giờ Vương Huy mới biết những bè bị cắt dây là do bọn con nít lặn dưới nước thi hành.

Y kiểm điểm lại, tất cả 12 bè bị cắt dây, trên trăm quân bị chết đuối.

Phải hơn một giờ, Triệt Triệt Đô mới đổ bộ xong ba Thiên-phu Lôi-kỵ, ba Thiên-phu Đại-lý. Hàng ngũ chỉnh đốn lại. Vương Huy báo cho Triệt Triệt Đô biết việc 18 võ sĩ bị mấy thiếu nữ trong con thuyền vô danh bắt sống. Hơn trăm Lôi-kỵ bị bọn con nít làm vỡ bè, bị nước cuốn đi mất. Nghe tin này Triệt Triệt Đô cau mặt lại:

- Con bà nó! Bọn hèn nhát.

Gã Trịnh Đức tỏ vẻ hiểu biết:

- Cái bọn con nít lặn dưới nước cắt dây này là đội Ngạc-ngư, do con nuôi của Hưng-Đạo vương tên Yết-Kiêu chỉ huy. Chúng có thể ở dưới nước hàng giờ.

- Yết-Kiêu với đội Ngạc-ngư là bọn nào?

- Yết-Kiêu là một đứa trẻ mồ côi, gốc người vùng biển Hạ-long. Y tuổi khoảng 12-13, mới được Hưng-Đạo vương nhận làm con nuôi. Còn đội Ngạc-ngư có 18 đứa, đều là con cháu ngư dân trên vùng biển Hạ-long. Chúng rất giỏi thủy chiến, lại gan dạ không ai bì kịp. Nếu ta có thủy quân, thì phải coi chừng, bằng không giữa lúc giao chiến, chúng đục thuyền thì nguy thay. Tuy ta không có thủy quân, nhưng mỗi khi dùng thuyền bè vượt sông, phải tối đề phòng chúng.

Sau ba ngày gây bất ổn cho quân Mông-cổ trên đoạn đường từ biên giới đến ngã ba sông Bạch-hạc, Vũ-Uy vương tâu về triều, cùng phúc trình lên Hưng-Đạo vương. Bấy giờ Nguyên-Phong hoàng đế đang ở Bình-lệ-nguyên. Ngài truyền sai chim ưng mang chiếu chỉ ra mặt trận biên giới phong thưởng cho tất cả tướng sĩ có công. Trong đó:

- Đô-thống Trần Quới thống lĩnh hiệu binh Tiền-thánh dực, được thăng Trấn-biên tướng quân, tước Quy-ninh tử.

- Đô-thống Bùi Hoán, được thăng Phì-đức tướng quân, Kiên-long tử.

- Đô-thống Hoàng Vui được thăng Văn-mẫn thượng tướng quân tước Kiêu-kỵ bá.

A Tan cũng đã đổ bộ xong. Hai tướng bàn với nhau. Triệt Triệt Đô thắc mắc:

- Cứ như ước tính của Thái-sư, thì nhất định bọn Việt sẽ tiến lên tấn công ta. Thế mà ta sang sông, lập trận cũng lâu, tại sao chúng lại im lặng thế kia?

A Tan bị khích động mấy ngày liền, tinh thần trở lên thất thường:

- Tôi nghĩ bọn Nam-man chỉ có tài cắn trộm, có tài bầy trò ma, trò quỷ mà thôi. Nếu chúng không đánh ta, không lẽ ta cứ án binh tại đây rồi đêm nay chúng lại tới cắn trộm? Vậy theo tôi nghĩ, ta cứ xua quân phá trận của chúng, rồi bắt sống Trần Cảnh. Trần Cảnh bị bắt, thì coi như An-Nam bình định xong.

- Thôi thì ta cứ án binh thêm một giờ nữa xem sao?

Triệt Triệt Đô sai một Thập-phu thám mã dò dẫm trận Việt tại Bình-lệ nguyên. Hơn ba khắc sau, đội thám mã trở về báo:

- Quân Việt có hai cánh. Một cánh dàn ra tại bờ sông. Cánh này toàn Thủy-quân thuộc hạm đội Âu-Cơ. Còn cánh trên bộ, có vua Việt thân chinh. Vua Việt dàn quân trên một cánh đồng. Phía sau lưng là những xóm làng, đồng lầy. Trận của chúng rất kỳ lạ: Cứ một đội Tượng-binh, một đội Kỵ-binh, một đội Ngưu-binh thì có hai đội bộ binh. Trận thế rất vững.

Nhìn sang phía bên kia sông thấy quân của phò mã Hoài-Đô đã di chuyển xuống hạ lưu rồi, Triệt Triệt Đô cho rằng qua lẽ giờ này cánh quân ấy đang qua sông.

Hơn giờ trôi qua, vẫn không thấy bóng quân Việt.

Thám mã báo:

- Từ phía Nam, có một đội kỵ mã, y phục giống Lôi-kỵ của ta, đang phi tới.

- Hay quá! Có lẽ họ là người của phò mã Hoài-Đô sai liên lạc với ta đấy.

Đội kỵ mã phi như bay, mỗi lúc một gần. Gã Thiên-phu trưởng Hoà-Khâm ra lệnh:

- Ngăn chúng lại.

Một Thập-phu dàn ngang, vẫy tay ra hiệu cho đội kỵ mã ngừng lại. Nhưng dường như bọn này không tuân lệnh. Ngựa vẫn phi, gió cuốn bụi bay mịt mờ. Thấy triệu chứng bất thường, Hòa Khâm quát lớn:- Dùng thoòng loọng lôi cổ chúng xuống.

Thoòng-loọng tung lên, chín Lôi-kỵ bị lộn đầu xuống đất. Mọi người nhìn lại, thì ra chín xác chết của bọn võ sĩ bị tung chài bắt dưới sông ban ngãy. Còn một Lôi-kỵ, đầu đội mũ đỏ chói, y né đầu tránh khỏi, rồi bắt lấy giây giật mạnh. Tên võ sĩ tung giây bị bay tung lên cao. Gã bị tên mũ đỏ kẹp vào nách, quay đầu ngựa chạy. Biến cố xẩy ra nói thì chậm, nhưng kẻ tung giây, người giật giây, bắt người, quay đầu ngựa...trong chớp nhoáng. Gã mũ đỏ quay mặt lại, để tay lên mũi trêu Triệt Triệt Đô. Y nói bằng tiếng Mông-cổ:

- Ê! Tên Thát-đát kia! Có giỏi phi ngựa đua với tớ?

Bị khích động, không làm chủ được, Triệt Triệt Đô ra lệnh cho Hòa-Khâm đuổi theo. Gã mũ đỏ dường như không biết những gì xẩy ra phía sau, y vẫn cắm đầu ra roi cho ngựa phi. Nhưng y kẹp thêm một người, nên chưa đầy một khắc, y đã bị Hòa Khâm đuổi kịp. Thình lình y tung người lên cao, đứng trên lưng ngựa, tay y ném tù nhân về sau. Hòa Khâm không kịp phản ứng, thân thể gã tù binh trúng đầu ngựa của hắn, rồi rơi xuống đất. Con ngựa cất cao vó trước hý lên, nhưng nó đã đạp phải gã tù binh. Quyết bắt cho đươc đối thủ, Hòa Khâm thúc ngựa đuổi theo. Ngựa của gã mũ đỏ chạy vòng vòng quanh cánh đồng mênh mông, dường như trêu ghẹo đệ nhất kỵ mã của đoàn quân Nam-chinh Mông-cổ.

Thấy Hòa Khâm không bắt được gã mũ đỏ, Triệt Triệt Đô ra lệnh cho Vương Huy vọt ngựa chặn đầu y. Gã mũ đỏ không coi Vương Huy ra gì, khi hai ngựa sắp giao nhau, Vương Huy phát chưởng tấn công. Gã mũ đỏ cười một tiếng, rồi chĩa tay phóng một chỉ. Nếu Vương Huy tiếp tục phóng chưởng thì lòng bàn tay của y bị xuyên thủng. Là một võ sư phái Liêu-Đông, đã đấu hàng nghìn trận, kinh nghiệm có thừa. Vương Huy biến chiêu thành cái gạt. Gã mũ đỏ thu chỉ về, thì vừa lúc đó Hòa Khâm đã đuổi kịp. Thế là ngựa của gã mũ đỏ bị ép hai bên bởi ngựa của Hòa Khâm, Vương Huy.

Ba ngựa phi song song. Dường như gã mũ đỏ không hề sợ hãi. Gã thè lưỡi ra trêu hai địch thủ. Hòa Khâm, Vương Huy đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng phát chưởng tấn công đối thủ. Gã mũ đỏ cười nhạt, không phát chiêu chống lại, đã vậy gã còn méo miệng trêu kẻ thù. Kình lực của hai chưởng cực kỳ trầm trọng đã bao trùm gã. Thình lình gã lắc mình một cái, người gã đã nằm dưới bụng ngựa. Hai chân gã kẹp vào hông ngựa. Chưởng của Hòa Khâm, Vương Huy chạm vào nhau, bình một tiếng, cả hai cùng bị trấn động, chân tay tê liệt, ngựa bị kình lực rung động, cũng chạy chậm lại. Bấy giờ gã mũ đỏ bật ngồi lại trên lưng ngựa, tay gã phát hai chỉ, trúng giữa mắt ngựa của Hòa Khâm, Vương Huy. Con ngươi bị lòi ra, hai ngựa hý lênh thảm thiết, rồi khuỵu vó trước, ngã lộn đi hai ba vòng, quật chủ nhân văng ra xa. Gã mũ đỏ cười ha hả, gã nói vọng lại bằng tiếng Mông-cổ:

- Bọn bay chỉ là tụi mọi rợ vùng Thảo-nguyên, mà đòi đấu thuật kỵ mã với con cháu Phù-đổng Thiên-vương ư?

Lời nói vừa dứt, thì ngựa của y đã rẽ vào một ngõ hẻm hai bên toàn tre.

Triệt Triệt Đô than với A Tan:

- Từ trước đến giờ, chúng mình cứ tưởng Lôi-kỵ của ta có tài kỵ mã vô địch. Không ngờ, gã kỵ mã ban nãy còn tài tình hơn. Y ngồi trên mình ngựa, co tay một cái, bắt người, kẹp vào nách. Con ngựa thi khụy hai vó trước, rồi quay một vòng. Trong quân chúng ta, không ai làm được việc đó cả.

Trịnh Ngọc được dịp khoe cái hiểu biết:

- Thuật kỵ mã của chúng ta do phò mã Trần Thủ-Huy với tướng chỉ huy đội võ sĩ Long-biên huấn luyện. Mà thuật kỵ mã này xuất thân từ phái Sài-sơn. Người chỉ huy mặt trận Bình-lệ-nguyên là Vũ-kỵ thượng tướng quân Lê Tần. Y là em ruột của chưởng môn phái Sài-sơn.

Triệt Triệt Đô cũng nghe nói qua về vụ này. Y hỏi:

- Nguồn gốc thuật kỵ mã của phái Sài-sơn do ai nghĩ ra?

- Do tổ sư của phái là Phù-Đổng Thiên-vương chế ra cách đây 3 nghìn năm. Trải ba nghìn năm dài, các đời sau bổ xung, thêm thắt vào, nên thuật kỵ mã của phái này vô địch thiên hạ.

Để tỏ ra hiểu biết, Trịnh Ngọc thuật lại hành trạng Phù-Đổng Thiên-vương cho bọn Triệt Triệt Đô nghe.

Thình lình Hòa Khâm hét lên một tiếng, rồi run bần bật. Nhìn y, Triệt Triệt Đô giật bắn người lên:

- Cái gì? Dường như người bị trúng độc Liêu-Đông của tên mũ đỏ rồi hả?

Y quay lại hỏi Trịnh Ngọc:

- Trong các phái võ An-Nam, có phái nào biết xử dụng độc chưởng Liêu-Đông không?

- Không!

Hòa Khâm đau quá, y uốn cong người lại, tay chỉ vào Vương Huy. Vương Huy tỉnh ngộ:

- Chết rồi! Hồi nãy tôi phát chưởng tấn công tên mũ đỏ. Trong khi Hòa Khâm cũng tấn công y. Hai chưởng của chúng tôi chạm nhau.

Y móc trong bọc ra một viên thuốc, nhét vào miệng Hòa Khâm. Hòa Khâm vận công cho thuốc mau tan.

Sang giờ Mùi, thì Kỵ-mã phi tiễn báo với Triệt Triệt Đô, A Tan:

- Quân của phò mã đã vượt sông xong, đang chuẩn bị đánh vào hậu quân địch. Vậy xin hai tướng quân xuất binh ngay.

Đạo quân của A Tan đã chỉnh bị từ lâu. Y cầm cờù phất lên:

- Tiến!

Thiên-phu Lôi-kỵ vọt ngựa theo con đường dọc bờ sông. Phía sau, ba Thiên-phu Đại-lý nối đuôi nhau, rầm rộ tiến bước.

Đạo quân của Triệt Triệt Đô gồm có ba Thiên-phu Lôi-kỵ, mười Thiên-phu Đại-lý. Để giữ sức người, sức ngựa, y ra lệnh quân tiến từ từ. Khi thấy trận Việt hiện ra xa xa, y mới phất cờ. Lập tức Thiên-phu thứ nhất chia làm hai. Năm bách phu dàn hàng ngang, người hú lên rùng rợn, ngựa hý inh ỏi, rồi cùng lao tới. Lúc còn cách trận Việt ba chục trượng, tất cả cùng dương cung, buông tên. Trận Việt vẫn giữ nguyên, quân sĩ đưa khiên-mây lên hứng tên. Tên vừa bắn vào mộc, thì Lôi-kỵ đã tới sát phía trước, chúng phóng lao vào trận, rồi quay ngựa chạy về trận mình. Bấy giờ quân Việt mới dương cung bắn theo. Họ không bắn kỵ mã, mà bắn vào ngựa. Hơn trăm ngựa ngã lăn ra, vật kỵ mã xuống đất. Đám kỵ mã bỏ ngựa chạy theo quân mình. Đến đây, năm bách phu thứ nhì đã vọt ngựa tới, cũng dương cung bắn, phóng lao, rồi chạy. Quân Việt lại bắn ngựa. Hơn trăm kỵ mã ngã ngựa. Ky mã lại bỏ ngựa, chạy theo quân.

Triệt Triệt Đô đứng xa quan sát hai cuộc tấn công. Y kêu lên:

- Lạ thực. Chúng ta đã đánh hàng trăm trận, hàng mấy chục nước. Không đội quân nào chống trả được hai đợt xung phong. Tại sao bọn Việt lại biết cái kẽ hở của ta là: Lúc quân phóng lao rồi chạy, chúng chờ đợi sẵn rồi buông tên? Ta mất hơn hai trăm chiến mã rồi! Được! Ta cho tấn công hai đợt nữa.

Y cầm cờ phất. Lôi-kỵ thúc ngựa vọt lên, nhưng ngựa vừa sải được mấy bước thì ngã lăn ra, quật kỵ mã xuống đất. Biến cố xẩy ra đột ngột. Tuy kinh ngạc, nhưng là một tướng tài, Triệt Triệt Đô cho rằng ngựa quá mệt. Y ra lệnh cho Thiên-phu khác thay thế. Ngựa hý, kỵ mã rú rùng rợn rồi lao tới. Triệt Triệt Đô cười sung sướng:

- Xem lần này trận Việt có giữ nổi không?

Y chợt để ý, thấy quân Việt đã lùi lại đến hơn trăm trượng. Lớp sóng Lôi-kỵ lao tới như núi lở, băng tan. Nhưng khi vừa nhập vào khu đất quân Việt lui, thì ngựa hý lên những tiếng thảm thiết, rồi con thì nhảy loạn hàng ngũ, con thì ngã lăn ra dẫy tê tê. Giữa lúc ấy, trận Việt mở ra. Một đội dũng sĩ, áo chẽn, tay cầm đoản đao xuông ra chém phầm phập. Loáng một cái, hơn năm trăm kỵ mã với ngựa bị giết. Thanh toán xong đám kỵ mã, các dũng sĩ Việt lùi trở về, cửa trận đóng lại như cũ.

Đứng quan sát, Triệt Triệt Đô kinh hãi:

- Chết rồi, năm bách phu của ta trúng bãi chông! Trời ơi! Quân Mông-cổ chuyên dùng lối lùi trận, lừa cho địch vào bãi chông, rồi giết. Tại sao bọn Việt cũng biết? Hơn nữa, chúng xử dụng thuật này tinh vi hơn ta. Chúng đợi Lôi-kỵ xung phong rồi, mới lùi lại. Ta có muốn ra lệnh thu quân cũng không kịp! Hà! Nhất định trong quân Việt có một tướng tài Mông-cổ. Y biết rất rõ chiến thuật của ta, y đưa ra phương pháp phá vỡ. Làm sao bây giờ?

Triệt Triệt Đô có hai Thiên-phu Lôi-kỵ, thì Thiên-phu thứ nhất mà y dẫn theo từ biên giới về đây, đã bị ngã ban nãy. Thiên-phu thứ nhì này Ngột-lương Hợp-thai mới cấp cho y, bây giờ bị thiệt hại một nửa. Y chỉ còn có năm Bách-phu thì làm gì?

Giữ lúc y kinh hoàng, thì viên quan phụ trách chữa ngựa báo:

- Thưa tướng quân. Chúng ta bị trúng kế giặc rồi. Cái tên Đỗ Thanh hôm qua trao thuốc cho ta, bảo sáng nay cho uống để trị tuyệt nọc trúng độc...Thực ra thuốc đó là thuốc độc, làm ngựa bị tê liệt bốn chân.


Đấu Thần Tuyệt Thế

Hồi (1-50)


<