Vay nóng Tima

Truyện:Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử - Hồi 32

Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử
Trọn bộ 61 hồi
Hồi 32: Nam Thiên Hoa Khôi Hữu Nhị - Thiên Hạ Thần Kiếm Vô Song
4.50
(4 lượt)


Hồi (1-61)

Siêu sale Lazada

(Hoa khôi trời Nam có thể có hai,
Thần kiếm thiên hạ chỉ có một)

(Văn Thiên Tường, thơ ca tụng vương phi Ý Ninh) 

Chu Anh là lãnh tụ của quân Cần vương Đại lý. Trong một trận phục kích của Mông cổ tại núi Thác sơn, ông bị Mông cổ bắt, rồi giải về cho Mông ca. Bây giờ được trao đổi trở về với Tống, ông như người chết, được sống lại. Địa Lô giảng giải cho ông biết tình hình, rồi hỏi:

– Chu Thái úy bị bắt trong trường hợp nào?

– Tôi với Quốc công Tạ Quốc Ninh cùng phu nhân di chuyển với một đội quân không quá một trăm người thì bị lọt vào một ổ phục kích của binh Đại lý theo Mông cổ. Chỉ không đầy một khắc tôi với phu nhân bị bắt, Tạ Quốc công thoát được, song không biết sau ra sao.

Địa Lô giật mình:

– Sao? Phu nhân của Tạ Quốc công bị bắt ư?

– Đúng vậy. Kiếm thuật phu nhân thần thông. Nhưng vì khiếm thị, bị Mông cổ quăng dây bắt sống. Khi phu nhân bị bắt thì bọn lính Mông cổ nhận ra phu nhân là thứ phi của Ngột Lương Hợp Thai. Phu nhân chối không nhận mình theo cần vương Đại lý mà khai rằng bị Đại lý bắt. Bọn Mông cổ đối xử với phu nhân rất kính trọng. Chúng định đưa phu nhân đi Kinh châu với Ngột Lương Hợp Thai.

– Tôi thấy Chu Thái úy không khỏe. Xin nán lại đây chờ ít ngày, tôi trị bệnh cho rồi tôi sẽ tôi sai người đưa Chu Thái úy về Đại lý.

Buổi trưa hôm ấy lại có thư của Vũ Uy vương báo:

“ Đại Hành cho biết, Mông Ca đang nổi giận, vì hai đoàn vận lương từ Trường an, Phù phong tới bị đốt sạch ở hang Tý Ngọ và Hào đình. Y truyền đem hai vạn phu kị binh dàn ra tuần tiễu bảo vệ các đoàn tiếp tế lương thảo.  
Hiện đạo quân của Mật Lý Hỏa Giả cạn lương, chỉ còn dùng được 4 ngày nữa. Y cho cướp của dân. Nhưng không được làm bao. Đạo quân của Mông Ca cũng chỉ còn không quá 7 ngày. Trong khi lương từ Phù phong, Trường an chưa tới, mà đường tiếp tế từ Thành đô bị tuyệt. Được tin kho lương Tống tại Giang an, Bồ lăng chất như núi, Mông Ca đang có kếù hoạch đánh Giang an. Phải dề phòng, bằng không Mông Ca sẽ bỏ Điếu ngư, tấn công Bồ lăng, Giang an, cướp lương”. 

Vương Kiên mừng chi siết kể:

– Đại đởm đại tướng quân thực xứng đáng với danh hiệu.

Lại có thư của Đại Hành:

“ Mông Ca cho thu tất cả chiến thuyền của Tống bị bắt, lại cho hàng tướng luyện tập thủy binh, chuẩn bị đánh Điếu ngư trong trận sắp tới”. 

Chỉ còn một ngày nữa là Mông cổ tái chiến Điếu ngư. Vương Kiên họp chư tướng bàn kế chống trả.

Vương giới thiệu Địa Lô:

– Đây là Văn Bắc thượng tướng quân của Đại Việt, viện cho chúng ta. Nhờ viện binh Đại Việt mà chúng ta chiếm lại được 14 thành dọc Dân giang, và đoạt được trên 50 vạn hộc lương.

Từ hơn tháng qua, binh tướng Tống đã được biết về cuộc viện binh của Đại Việt. Họ đã dành tất cả thiện cảm cho tướng sĩ Việt. Bây giờ họ thấy có 7 tướng Việt cùng ngồi nghe lệnh.

Vương Kiên bưng ấn kiếm trao cho Địa Lô:

– Văn Bắc thượng tướng quân! Xin tướng quân trổ tài thao lược cho.

Địa Lô không nhân nhượng, thản nhiên tiếp ấn kiếm.

Tử nói:

– Từ hơn năm qua, mỗi khi Mông cổ tấn công, chúng ta thường bị đặt vào thế bị động. Lần này ta dành thế chủ động. Ta đặt chúng vào thế bị động.

Tử gọi 2 Vệ trưởng vệ Lôi tiễn nhận lệnh. Tử hỏi:

– Tầm xa của Lôi tiễn là bao nhiêu?

– Trung tiễn 50 đến 100 trượng. Đại tiễn thì 200 đến 500 trượng.

– Hai em đặt Lôi tiễn trên thành chuẩn bị sẵn. Thông thường khi Mông cổ tới, chúng dàn kị binh ra cách thành vài trăm trượng. Còn tù binh, chúng cho đeo lá chắn tiến tới chân thành, rồi bắc thang leo lên. Lần này khi chúng còn cách thành 200 trượng các em thấy chiêng lệnh thì phóng Đại tiễn vào đội hình. Nhớ phóng loại nổ trên cao, chụp xuống đầu chúng. Nếu chúng lui thì thôi, nhược bằng chúng cứ lao tới, khi vào tầm Trung tiễn có chiêng lệnh thì dùng cả Đại, Trung tiễn nã vào chúng.

Tử gọi 2 Vệ trưởng Nỏ thần:

– Nếu bọn Mông cổ cứ chịu đựng Lôi tiễn tiến tới chân thành, hễ nghe chiêng lệnh thì cho nã Nỏ thần xuống.

Tử gọi 2 Vệ úy Ngạc ngư:

– Hai em đem bản bộ Ngạc ngư sang biên kia sông, khu đối diện với mặt Đông, Nam thành phục sẵn. Khi thấy chiến thuyền Mông cổ tới thì lặn ra đục thuyền chúng.

Tử ra lệnh cho Đô đốc thủy quân Điếu ngư là Chu Đức:

– Các lần trước Mông cổ không có thủy quân tham chiến. Lần này chúng đem chiến thuyền của hàng binh, luyện tập hàng binh, rồi tấn công vào phía Đông, Nam thành. Xin Đô đốc cho chiến thuyền mình giao chiến lấy lệ rồi rút lui. Khi thấy thuyền của chúng bị chìm là lúc Ngạc ngư hành sự, thì tiến lên bắt tù binh.

– Tổng chỉ huy thủ thành là Kiêu kị thượng tướng quân Nguyễn Văn Lập.

– Hoa Sơn ngũ hiệp, Kim sơn tam kiệt cùng đoàn võ sĩ chia nhau trấn trên mặt thành, đề phòng Mông cổ dùng các cao thủ leo lên tấn công.

– Vương Tiết độ sứ, Tạ phó sứ với tôi lên thành tổng đốc chiến.

Hôm sau, giờ Mão, quân Tống-Việt trên thành Điếu ngư đã vào vị trí chờ đợi. Trong thành đã rút đi hai hiệu binh Bồ lăng, Chiêu thông, chỉ còn hiệu Điếu ngư, nhưng người người đều tự tin vì có viện binh Việt.

Họ không phải chờ lâu, những tiếng hú, tiếng ngựa hí rùng rợn từ xa vọng lại.

Thấy thấp thoáng bóng người, ngựa, Địa Lô đánh chiêng lệnh. Ba tiếng rú như sấm động. Rồi ba tiếng nổ rung chuyển không gian, ba khối cầu lửa, khói đen ngòm tỏa ra trên bầu trời. Những tiếng rú, tiếng ngựa hí im lìm. Nhưng các kị mã Mông cổ vẫn lao tới.

Địa Lô phất tay, ba tiếng chiêng vang lên. Tiếp theo những tiếng rít xé gió của Lôi tiễn rời khỏi thành, rồi những tiếng nổ kinh thiên động địa. Mỗi tiếng nổ là một quả cầu lửa chụp xuống đội hình kị mã Mông cổ. Ngựa, người ngã lăn ra, đè lên nhau. Quả không hổ là đội quân thiện chiến, kỷ luật, kị binh Mông cổ vẫn lao tới. Khi cách thành khoảng trăm trượng thì dừng lại, dàn thành trận bao vây hai mặt Tây và Bắc. Lôi tiễn vẫn nã đều đều.

Trận Mông cổ mở ra. Các máy bắn đá được xử dụng. Những tảng đá khổng lồ bay lên cao, rơi vào thành. Lôi tiễn nã lên đầu các pháo binh bắn đá, nhưng không ai dám rời vị trí. Một hồi tù và rúc lên. Trận kị binh mở ra, hàng hàng, lớp lớp bộ binh tay cầm khiên chống tên, lưng dắt đoản đao tiến tới. Cứ mỗi toán lại có một quân Mông cổ đứng sau, tay lăm lăm đao. Người nào ngừng lại, hoặc quây đầu về sau là bị chém liền. Phía sau hơn trăm trượng là trận kị binh.

Địa Lô ra lệnh đánh chiêng, Nỏ thần bắn loạt đầu tiên cả một lớp người ngã xuống. Lớp sau dẫm lên xác chết lớp trước lao tới. Nỏ thần bắn loạt thứ nhì, lại một lớp người ngã xuống. Kị binh tới gần chân thành. Họ dương cung nhắm những xạ thủ Lôi tiễn, Nỏ thần buông tên. Một số bộ binh đã lên được mặt thành. Nguyễn Văn Lập chỉ huy bộ binh đánh bật chúng rơi xuống chân thành.

Trong khi đó phía Nam, Đông thành do Tạ Phương Đắc chỉ huy: dưới chân thành là những chiến thuyền dàn ra thành trận chờ đợi. Xa xa một đoàn chiến thuyền kéo cờ Mông cổ đang chèo tới. Tất cả 95 chiếc. Tạ Phương Đắc đánh ba tiếng trống lệnh: Đô đốc Chu Đức phất cờ, các chiến thuyền Tống từ từ lui lại. Đoàn thuyền Mông cổ tới chân thành thì dàn trận thành hình thước thợ rồi dùng máy bắn đá lên. Vương Kiên đánh ba tiếng chiêng, lập tức Lôi tiễn trên thành nã xuống các chiến thuyền. Mười Đại tiễn trúng 10 chiến thuyền. Các chiến thuyền bốc cháy.

Thuyền bốc cháy, quân sĩ la hét mặc quân sĩ la hét. Các chiến thuyền áp vào chân thành. Binh sĩ bắc thang leo lên. Chỉ chờ có thế, Vương Kiên đánh ba tiếng chiêng, Nỏ thần tác xạ ba loạt, binh tướng đang leo lên, ngã lộn xuống sông. Thình lình có tiếng hô:

– Thuyền bị thủng đáy, nước tràn vào.

Gần 50 chiến thuyền đang từ từ chìm xuống. Quân sĩ nhảy khỏi thuyền bơi lóp ngóp đầy sông. Giữa lúc đó chiến thuyền Tống quay trở lại. Thủy thủ Tống đứng trên thuyền dùng tên bắn xuống như bắn vịt.

Tất cả 95 chiến thuyền Mông cổ đều từ từ chìm xuống sông. Binh tướng Mông cổ la hét xin đầu hàng. Đô đốc Chu Đức lệnh cho thủy thủ Tống tung dây kéo lên trói lại.

Giữa lúc đó có tiếng ầm, ầm, rồi các Ngạc ngư binh từ dưới nước vọt lên sàn thuyền Tống. Người nào tay cũng cầm đục, búa. Bấy giờ tù binh Mông cổ mới biết tại sao thuyền mình bị chìm.

Chiến thuyền Tống chèo tới, dàn hàng dọc theo sông, bắn tên vào hông đội hình kị binh Mông cổ đang tấn công vào mặt Tây thành. Vạn phu trưởng chỉ huy mặt này rúc lên ba hồi tù và. Kị binh đổi thế trận: một nửa tiếp tục công thành. Một nửa dàn ra chống với thủy quân.

Cuộc chiến đến giờ Ngọ (12 giờ trưa) thì đám tù hàng binh Tống leo lên tấn công thành chết gần hết. Phía Mông cổ rúc tù và thu quân. Kị binh đổi tiền đội ra hậu đội, cùng hú lên rồi rút lui. Nhưng Lôi tiễn vẫn nổ trên đầu.

Đám tù hàng binh cũng ôm vũ khí rút ra xa.

Địa Lô quyết không tha, Tử đánh chiêng, Nỏ thần tác xạ thêm một loạt, đám tù hàng binh còn lại ngã lổng chổng.

Một tướng Mông cổ phi ngựa tới, tay cầm hai lá cờ phất lên: một xanh, một đỏ. Đó là biểu hiệu xin ngừng chiến để thu nhặt xác chết. Đám bộ binh đẩy ra hơn trăm xe, nhặt xác chết chất lên. Nhiều thương binh chưa chết, chỉ bị trúng tên, không đi được thì đám bộ binh nhặt xác chết vung đao chặt đầu cho chết luôn.

Vương Kiên đánh ba tiếng trống thu quân. Các đội Nỏ thần, Lôi tiễn tạm rời vị trí, nghỉ ngơi, ăn trưa. Tổng kết phía Lôi tiễn, Nỏ thần chỉ có 15 người bị thương nhẹ do đá bắn trúng. Đội Ngạc ngư vô sự. Phía Tống 30 bộ binh tử thương do đá bắn trúng. Thủy quân bắt hơn ba trăm tù binh.

Kể khi Mông Ca vây Điếu ngư, đây là lần đầu tiên Mông cổ bị thất bại. Tống chiếm thượng phong. Vương Kiên cho mở tiệc mừng chiến thắng.

Địa Lô viết thư báo cáo trận đánh, rồi sai chim ưng đem đến cho Vũ Uy vương.

Vương Kiên họp chư tướng nghị kế. Vương lên tiếng:

– Trận vừa qua Mông cổ bị bất ngờ, tổn thất quá cao. Chắc chắn Mông Ca sẽ cho tiến công, phá bằng được thành này. Vậy chư vị có ý kiến gì không?

Kiêu kị tướng quân Nguyễn Văn Lập phát biểu:

– Thành này của mình nằm trên núi, tuy không cao, nhưng máy bắn đá của Mông cổ khó bắn tới thành. Còn bộ binh leo núi, tới chân thành đã mệt lử, dù cố gắng bắc thang lên được, thì đâu còn sức chiến đấu? Ta sợ là sợ bị bao vây, hết lương, tuyệt nước. Nay ta mới có lương, mùa này đang tháng 8, có mưa, con thác chảy xuống không bao giờ hết nước. Ta không sợ chúng tràn ngập. Ta cũng không đủ sức phản công. Ta cố giữ thành, chỉ mong chúng đánh không được, phải bỏ cuộc mà thôi.

Tạ Phương Đắc đề nghị:

– Mông cổ hết lương. Chắc chắn chúng sẽ cho mấy vạn người đánh Điếu ngư, rồi chia quân đánh chiếm Bồ lăng, Giang an để cướp lương. Ta nên xin Vũ Uy vương rút quân về trấn hai nơi này. Trận đánh tại Bồ lăng, Giang an sẽ khủng khiếp lắm. Cần có quân tinh nhuệ, tướng mưu trí thì giữ nổi.

Địa Lô đáp lời:

– Chúng ta có hai hiệu Văn Bắc, Thiệu Hưng thiện chiến, can đảm. Cần một hiệu thông thạo địa thế, vậy phi hiệu Bồ lăng, không hiệu nào bằng.

Chiều hôm ấy có thư của Đại Hành gửi cho Vũ Uy vương. Vương chuyển lại cho Địa Lô:

“ Trận đánh sáng nay Mông cổ bị thất bại lớn. Tổn thất kị binh lên tới gần vạn chết. Hơn vạn bị thương. Lao binh, hàng binh, bộ binh chết hơn hai vạn. 
Mông Ca thống mạ tướng chỉ huy công thành là Mục Tương Ca. Mục Tương Ca biện luận rằng y bị bất ngờ vì phía Tống có Lôi tiễn, Nỏ thần và Ngạc binh. Bộ Tham mưu trình bầy rằng ba loại vũ khí đó là ba loại của Giao chỉ. 
Mông Ca hỏi Thanh Liên về ba loại vũ khí trên. Thanh Liên trả lời rằng hồi ở trong nước nàng là một cô gái suốt ngày ca hát, nên không biết gì nhiều: nàng nghe nói đại khái rằng Nỏ thần do một tướng thời An Dương vương tên Cao Nỗ chế ra từ hơn nghìn năm trước. Các đời sau biến đổi đi, nay tinh diệu hơn nhiều. Còn Lôi tiễn, loại vũ khí này do các đạo quân Việt công phá Ung châu của Tống biến chế từ Nỏ thần ra. Lúc đầu hết sức thô sơ. Người sau biến đổi đi cho đến nay hiệu nghiệm nhiều: tầm tác xạ xa, sức công phá rất mãnh liệt.  
Hai tướng bị bắt được trao đổi là Dương Đại Uyển với Đặng Văn quyết rằng đạo quân tiếp viện là quân Việt. Mông Ca bắt Đặng Văn diễn lại các thế võ mà Thúy Hồng đấu với y trước mấy chục tướng võ. Họ nhận ra Thúy Hồng xử dụng võ công Mê linh, Đông A, Sài sơn. Nhất là Thiên la thập bát thức. 
Cuối cùng bộ tham mưu quả quyết: Hành Sơn vương là người Việt. Đạo quân tiếp viện là quân Việt. Tuy nhiên họ không biết Hành sơn vương là ai. Mông Ca ban chỉ cho các mặt trận phải bắt cho được một tù binh Việt sẽ biết Hành sơn vương là ai? 
Nhiều hàng tướng Tống trở mặt đánh lại Mông cổ, nên Mông Ca xử tử hình Dương Đại Uyển vì Đặng Văn, cũng như binh tướng Mông cổ bị bắt tại Nga sơn, Dân giang, Thanh thần tố cáo. 
Hiện lương thảo của Mông Ca chỉ còn ba ngày. Mà lương từ Hàm dương phải 10 ngày nữa mới có thể tới. Trước nguy cơ, bộ tham mưu quyết định chấp nhận tổn thất, bằng mọi giá phải chiếm Bồ lăng, Giang an để tự cứu mình. 
Mông Ca cho quân nghỉ ba ngày rồi: 
– Tiếp tục công phá Điếu ngư bằng ba đội quân đặc biệt:  
Đội thứ nhất: dùng một tướng người Tây vực đem chất nổ mà Mông cổ học được khi đánh sang Đức lan tây để phá thành Điếu ngư. Đội công binh này chuẩn bị 3 ngày nữa sẽ ra tay. Khi chất nổ phá vỡ tường thành, thì sang bước thứ nhì. 
Đội thứ nhì: dùng một đội võ sĩ do Hốt Tất Liệt tuyển chọn khi còn ở Hoa lâm. Chúng là người Hán, Tây vực, Hồi cương, Cao ly, Tây hạ. Bọn này sẽ dùng mộc che thân, dùng khinh công đi trước xông vào thành. 
Đội thứ ba: đã thúc các tướng người Hán ở vùng Đông xuyên, Tây xuyên viện cho 5 vạn binh. Y dùng 5 vạn này liều chết bắc thang tiếp theo các võ sĩ leo lên thành. 
– Trao cho tướng Xích Nhân Thiết Mộc Nhi chỉ huy hai đạo quân, mỗi đạo hai vạn phu sẽ tiến đánh Giang an, Bồ lăng”. 

Lại một thư khác:

“ Sau khi hai đoàn tải lương bị đốt. Mông Ca cho kị binh dàn ra tuần tiễu rất cẩn thận. Nên Đại Đởm đại tướng quân đã rút về Ích châu. Hiện đang ẩn dưới một con thuyền lớn gần nơi đóng quân của Mông Ca. Đã lênh cho Đại Đởm đại tướng quân đột nhập dinh trại Mông Cổ, bỏ thuốc độc vào nước uống các tầu ngựa. 
Vũ Uy vương, cùng bộ tham mưu sẽ tới Điếu Ngư hội với Vương Tiết độ sứ vào ngày mai”. 

Quân báo:

– Có sứ giả của Mông Ca xin vào yết kiến Vương Tiết độ sứ.

– Cho vào.

Vương Kiên ngồi giữa, bên phải là Tạ Phương Đắc, bên trái là Nguyễn Địa Lô.

Sứ giả là một văn quan, trước đây từng làm Tham quân cho Vương Kiên. Y tên Nguyễn Chiến.

Lễ nghi tất.

Vương Kiên biết tên này đến với mục đích chiêu hàng. Nên ông cười nhạt:

– Phải chăng người là Tham quân Nguyễn Chiến.

– Thưa Tiết độ sứ, trước kia tôi là Tham tướng của ngài. Nhưng nay tôi lĩnh Lễ bộ tham tri, tước Vũ thành công tôi là Khâm sứ của Đại hãn Mông cổ.

– Người định làm thuyết khách phải không? Người muốn nói gì thì nói đi. Nếu nói không thông đạo lý thì đừng chê gươm ta không sắc.

Nguyên Chiến cười ha hả:

– Ngài đe dọa tôi đấy à? Gươm ngài sắc, ngài muốn giết tôi thì ngài cứ giết. Tôi nghĩ tình xưa nghĩa cũ mà đến đây cứu tính mệnh ngài và mấy vạn người trong cái thành nhỏ xíu này. Ngài là người đọc sách, ngài phải biết rằng Khổng tử đứng trên cầu nhìn dòng nước chảy mà khuyên người đời phải tùy thời. Khi Triệu Khuông Dẫn nhân chúa mới qua đời, con còn thơ dại, bầy ra cái gọi là Hồng kiều binh biến để đoạt ngôi vua. Đấy là một thời. Triệu Khuông Nghĩa bầy ra cái vụ tiếng búa đêm khuya giết Khuông Dẫn, chiếm ngôi vua. Đấy là một thời. Hỏi Tống triều có gì đáng gọi là chính thống đâu? Nay khắp thiên hạ đều quy về Mông cổ. Đại Hãn tôi nhân từ, mở cửa thu dụng, trọng đãi tất cả người tài. Người yêu tài của ngài nên sai tôi đến đây, với lời hứa rằng nếu ngài chịu quy hàng thì sẽ phong cho ngài tước vương, vẫn để tổng trấn Ích châu. Ngài chờ gì mà không mở cửa thành đón tiếp người? Còn như ngài vẫn khăng khăng trung thành với cái triều đình như ngọn đèn trước gió, trong thì tên tể tướng Giả Tự Đạo chuyên quyền. Ngoài thì dân chúng chán ghét. Ngày một ngày hai, cái thành này bị phá, thân thể ngài bị phơi nắng phơi mưa cho ruồi bu, cho quạ rỉa, chẳng đáng tiếc ru? Xin ngài nghĩ lại.

Vương Kiên cười nhạt:

– Người là người đọc sách, từng được hưởng ơn mưa móc của triều đình. Giữa lúc quốc biến, ác quỷ Thát đát tàn hại dân chúng, người lại cúc cung quỳ gối theo chúng. Bây giờ dân chúng đất Ích châu này đang sống chết chống ác quỷ, thì người lại đến dây hoa ngôn xảo ngữ. Người về nói với Mông Ca rằng: Vương Kiên này tuy trói gà không chặt, nhưng khí tiết can vân, thà chịu chết, chết vinh hơn sống nhục.

Tạ Phương Đắc nói với Vương Kiên:

– Tiết độ sứ, Lễ bộ tham tri nói có phần đúng. Chúng ta cần nghị lại đã. Có lẽ nên hàng, để cứu sinh mạng hơn chục vạn người tại Ích châu. Vậy như thế này: xin Nguyễn tham tri về tâu với Đại hãn cho chúng tôi suy nghĩ ba ngày rồi trả lời người.

Ngồi cạnh Vương Kiên, nhớ một truyện, Địa Lô hỏi Nguyễn Chiến:

– Tôi hỏi Thiên sứ tin tức một người, mong Thiên sứ giúp cho.

Thấy một nam tử phong quang khác thường gọi mình là Thiên sứ, Nguyễn Chiến hãnh diện:

– Không biết tướng quân hỏi tin ai?

– Cách đây ít lâu, Mông cổ tại Đại lý cầm tù hai người, một là Chu Anh, hai là một phụ nữ. Chu Anh đã được trao đổi trở về rồi. Còn…

Nguyễn Chiến huênh hoang:

– Có, cô này là người Việt, từng là thứ phi của Thái sư Ngột Lương Hợp Thai bị Đại lý cầm tù. Vì vậy Đại Hãn không giam cầm mà cho ở trong một căn lều, sai cung nữ hầu hạ cẩn thận, chờ đưa về Kinh châu cho Thái sư. Ái chà cô ấy đẹp hơn Tây Thi, Dương Phi nhiều.

Trong khi Vương Kiên ngơ ngác thì Tạ đứng lên tiễn Nguyễn Chiến ra ngoài. Vương Kiên biết người phó tướng của mình mưu trí không biết đâu mà lường. Vì vậy khi thấy Tạ hứa ba ngày sẽ trả lời Mông Ca, ắt Tạ có mưu gì đây. Vương im lặng.

Tạ Phương Đắc trở vào, thấy Địa Lô cứ ngồi ôm gối mỉm cười thì kinh ngạc:

– Mưu của tôi không bõ cho Văn bắc thượng tướng quân cười. Người đoán ra hết rồi ư?

– Tôi thử nói ra xem có đúng ý của danh sĩ Nam Tống không nghe!

– Xin mời Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử.

– Khi Tạ danh sĩ hứa ba ngày sẽ trả lời thì bắt buộc Mông Ca không được tấn công Điếu ngư trong ba ngày ấy. Trong khi đó Mông Ca chỉ còn một ngày lương. Y đang chuẩn bị bỏ thành Điếu ngư lại sau để đánh Bồ lăng, Giang an cướp lương. Bây giờ y hy vọng mình hàng thì y sẽ có hết: có hàng binh, chiếm trọn Ích châu, có hai kho lương vĩ đại. Nhưng phải chờ sau ba ngày. Còn không giữ lời hứa với mình thì hao binh, tổn tướng. Y với bộ tham mưu suy nghĩ muốn điên lên được. Trong khi đó nội ba ngày thì Vũ Uy vương đã đem quân về đây, ta đủ sức đấu với Mông Ca.

Vương Kiên lo lắng:

– Liệu mưu sĩ của Mông Ca có nhìn ra không?

– Khó biết lắm. Tôi nghĩ chúng sẽ nhìn ra. Rồi đánh úp Điếu ngư.

Chiều hôm đó Vũ Uy vương cùng bộ tham mưu tới. Vương Kiên đón vào thành.

Tạ Phương Đắc trình bầy tình hình. Vũ Uy vương cười:

– Tôi được tin Mông Ca đã đoán ra mưu của Tạ hầu. Bề ngoài giả đồng ý cho ta tin là thực, ta không đề phòng rồi thình lình y tấn công. Cái mưu xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị này sao qua mắt chúng ta được? Y chuẩn bị ngày mai thí quân đánh một trận, làm cho binh tướng ta mệt mỏi. Sau đó, y cho hai đạo quân bỏ Điếu ngư lại sau tiến đánh Bồ lăng, Giang an. Y tin rằng trong ba ngày y sẽ hạ được thành Điếu ngư này. Ta phải tỏ ra rằng ta không muốn lằng nhằng với chúng. Ta cũng biết mưu của chúng.

Chiều hôm sau, có sứ giả của Mông cổ tới xin cầu kiến. Vương Kiên truyền cho vào. Sứ giả vẫn là viên tham quân Nguyễn Chiến. Lễ nghi tất. Nguyễn Chiến nói:

– Đại Hãn hài lòng về việc ngài chuẩn bị hàng. Thế nhưng người muốn biết tại sao ngài lại rầm rộ chuyển quân? Như vậy là thế nào?

Biết mưu kéo dài thời gian của mình vô hiệu. Nhìn tên phản phúc với bộ mặt trâng tráo, Vương Kiên nổi lôi đình. Ông quát:

– Võ sĩ đâu, chặt đầu tên này cho ta.

Võ sĩ lôi Nguyễn Chiến ra ngoài chặt đầu. Vương Kiên trao đầu y cho quân hầu:

– Người mang về cho Mông Ca, nói với y rằng: ngày mai quyết chiến.

Địa Lô hội kiến riêng với Vũ Uy vương, vương phi. Tử trình:

– Có tin buồn.

Phi hỏi:

– Tin gì vậy?

– Phu nhân của thầy Tạ Quốc Ninh bị Mông cổ bắt. Hiện Mông Ca cho cô ở trong một căn lều, sai cung nữ hầu hạ cẩn thận, làm áp lực với Ngột Lương Hợp Thai, bắt y phải bỏ Hốt Tất Liệt, thì sẽ đưa phu nhân về cho y. Bằng không thì gả cho Mục Tương Ca hay Xích Nhân Thiết Mộc Nhi.

Phi giật mình:

– Sao cháu biết.

Địa Lô trình bầy những gì Chu Anh, Nguyễn Chiến nói. Vương phi bàn:

– Mình phải cho Đại Hành, Thanh Liên biết. Rồi có thể tìm cách cứu Hoàng Liên. Hoặc Thanh Liên dùng quyền Tuyên phi đưa Hoàng Liên về cho ở chung.

Địa Lô xua tay:

– Thưa thím không ổn!

– Sao?

– Cô Hoàng đẹp quá. Cho về ở chung với cô Thanh, lỡ Mông Ca say cô Hoàng, y bắt cô làm phi thì lôi thôi to.

– Ừ nhi!

Vương viết thư cho Đại Hành liền.

Vừa lúc đó vương nhận được thư của Khu mật viện Đại Việt:

« Cách đây mấy tháng, Quốc công Tạ Quốc Ninh gửi biểu về triều đình báo tin: Hốt Tất Liệt cho con y là Hốt Khê Xích* làm Vân Nam vương, đem quân xuống Vân Nam. Hốt Kâhê Xích chiêu mộ các bộ tộc, cùng dân chúng. Nên quân Cần vương bất lợi. Phu nhân Hoàng Liên bị bắt. Quốc công xin được trở về nước an dưỡng tuổi già. Vậy ý vương thế nào? Liệu có cứu được phu nhân Quốc công không? Nếu cứu được thì đưa về nước ngay ». 
* Tên Mông cổ của gã Vân Nam vương là Hu Ghê Tri. Nguyên sử, q.202, An Nam truyện phiên âm là Hốt Khê Xích. 

Vũ Uy vương trả lời:

« Xin chấp thuận cho Quốc công về nước ngay. Một đời Quốc công xả thân với Xã tắc. Xin triều đình phong thưởng cho xứng đáng. Đã biết rõ tình trạng phu nhân Hoàng Liên. Sẽ tìm cách đưa phu nhân về nước khi thuận tiện ». 

Có sứ giả từ Lâm An tới. Sứ giả là một nhà nho, một thi sĩ tên Văn Thiên Tường. Vũ Uy vương hỏi:

– Văn Thiên Tường là người thế nào?

Vương Kiên nói với tất cả kính trọng:

– Đây là một trong ba danh sĩ Nam Tống. Người thứ nhất là Trương Thế Kiệt, người thứ hai là Lục Tú Phu. Ông ta là người thứ ba. Văn Thiên Tường tự là Tống Đoan, hiệu là Văn Sơn. Người đất Cát thủy, thuộc Cát châu (Giang Tây ngày nay). Ông sinh năm Đoan bình thứ ba đời Tống Lý Tông (1236).

Địa Lô tính nhẩm:

– Như vậy năm nay ông mới 30 tuổi.

– Đúng vậy. Đậu Trạng nguyên năm 20 tuổi. Tính khí cương trực, thiện đàm binh. Sau nhiều năm giữ các chức về hình pháp, ông được triệu về triều giữ chức Khu mật viện sứ. Mấy năm trước, Hốt Tất Liệt công phá Tương dương. Ông thân thám sát địa thế rồi thiết kế Tương dương, Phàn thành làm thế ỷ dốc, khiến Hốt Tất Liệt thất bại. Khi Hốt Tất Liệt bị thu binh quyền, ông kiến nghị cho Ích châu tiến quân ra đánh Phù phong, Hàm dương. Còn đại quân từ Tương dương, Phàn thành tiến lên phía Bắc, đánh Yên kinh. Nhưng tể tướng Giả Tự Đạo bác bỏ. Ông ngửa mặt lên trời than:

“ Trời sinh ra Giả Tự Đạo để hại Tống”. 

Ông bị Giả Tự Đạo khích vua đầy ông ra tri Cống châu. Vừa rồi Mông Ca sai Tháp Sát Nhi, A Truật, Ba Nhan đánh từ Đông sang Tây, hạ 10 châu, 144 thành. Triều đình gọi ông về coi Khu mật viện. Ông đề xướng nhà vua phát hịch Cần vương, kêu gọi các nho sĩ tự mộ quân giữ quê hương. Nhờ vậy mà khắp các làng, xóm, phủ huyện đều có lực lượng Cần vương, mà triều đình không tốn lương bổng, mua sắm vũ khí. Quân Tống đánh bại Tháp sát nhi 9 trận. Mông Ca thấy Tháp Sát Nhi bị thua, ra lệnh cách chức, đưa về trấn vùng Cao ly, Liêu Đông, cử Hốt Tất Liệt ra thay thế. Chức tước của ông hiện là Thái tử thái phó, Đông các điện đại học sĩ, Khu mật viện sứ. Trung chính hầu.

Vũ Uy vương, Vương Kiên cùng văn võ quan ra đón sứ.

Lễ nghi tất.

Văn Thiên Tường hướng Vũ Uy vương, vương phi, Địa Lô chắp tay hành lễ:

– Do môi hở, răng lạnh, triều đình Đại Việt viện Tống. Hoàng thượng cùng bách quan cực kỳ thâm cảm ơn của Thiệu Long hoàng đế. Qua mấy trận vừa rồi, Ích châu thắng liên tiếp, dành lại thế công, chiếm lại Thành đô, 21 thành phía Tây, phía Nam Ích châu. Tin này khiến sĩ dân thiên hạ bừng bừng hào khí.

Từ hôm Gia Huyễn Ông được trao đổi trở về, Ông bị bệnh hôm nay mới khỏi. Vương Kiên mời Gia Huyễn Ông cùng ra tiếp khách.

Gia Huyễn Ông nói với Văn Thiên Tường:

– Thái phó! Tôi bị đóng gông trong tù, khi được trở về chân tay như tê liệt: cổ cứng đơ quay khó khăn. Hai cánh tay dơ lên ngang mặt không nổi. Gối không gập lại được. Nhờ Văn Bắc thượng tướng quân dùng châm cứu trị cho. Hôm nay mới khỏi hẳn, mà ra đây chào Thái phó.

Gia Huyễn Ông giới thiệu Ý Ninh, Địa Lô với Văn Thiên Tường. Thế là Gia Huyễn Ông, Tạ Phương Đắc, Địa Lô, vương phi Ý Ninh, Vương Kiên, Văn Thiên Tường thành nhóm 6 người đều thuộc giới bút mặc văn chương. Họ là những người nặng nợ với bút nghiên, gặp nhau lọ là phải nói quen nhau từ trước. Họ quên đi mất nhiệm vụ trước mắt đang phải đối phó với cường địch. Họ thảo luận về thi, phú và cả về thư pháp.

Văn Thiên Tường cầm bút viết:

Hoa thị kiếm,

Kiếm như hoa,
Nam thiên hoa khôi hữu nhị,
Thiên hạ thần kiếm vô song”.

(Người đẹp như hoa mà kiếm thuật thần thông,
Người đẹp xử dụng kiếm, kiếm chiêu như hoa.
Hoa khôi trời Nam, sắc đẹp có thể có hai,
Nhưng thần kiếm thì Thiên hạ không hai).

Ý Ninh chắp tay:

– Đa tạ Tống Đoan tiên sinh! Tiểu nữ xin múa bút trước đệ nhất danh tài.

Ý Ninh cầm bút viết:

“ Chính khí can vân,

Gia Cát hậu duệ”.

(Chính khí của ngài cao tới mây,

Tài nối nghiệp Gia Cát Lượng).

Văn Thiên Tường cầm tờ giấy khen:

– Cứ nhìn nét chữ sắc, nhọn của vương phi, dù kẻ phàm phu tục tử cũng biết rằng vương phi là kiếm thuật danh gia.

Địa Lô cầm bút vẽ một lát, đã được hình Vương Kiên, Văn Thiên Tường, Gia Huyễn Ông. Gia Huyễn Ông cầm ba bức hình lên coi, ông tấm tắc khen:

– Nét bút đến như thế này thì đáng tôn là Thiên hạ tài tử.

Ông nhìn Vũ Uy vương:

– Tôi có chút danh về tướng mệnh. Từ hôm gặp vương gia, vương phi đến giờ tôi dã ngầm xem tướng ăn, tướng đi, tướng nói, tướng cười của vương gia, vương phi. Hôm nay mạn phép coi cho vương gia.

Phụ nữ dù Đông, dù Tây, dù kim, dù cổ đều thích bói toán. Vương phi Ý Ninh nói với Gia Huyễn Ông:

– Rất mong tiên sinh phán cho đôi lời.

– Tướng của vương phi không thể gọi là tiên, là phi, là của trần gian được. Phi là người nhà trời, thượng đế sinh ra phi, cho phi một tấm nhan sắc khuynh quốc. Thượng đế sinh ra phi cũng không phải chỉ để dùng kiếm thuật giữ nước, mà còn ban cho tài trí để cứu đời. Sớm gặp minh sư, kiếm thuật thần thông. Văn chương quán thế. Duyên tình đẹp như gấm, như hoa, cùng trượng phu sát cánh phụ quốc, tế dân. Ân huệ của hai vị bàng bạc khắp Đại Việt, Trung Nguyên. Tiếc rằng ánh mắt sáng quá, thành ra ít ai dám nhìn thẳng vào mặt.

Phi hỏi đám Mê linh kiếm trận:

– Như vậy là tướng sư tỷ dữ phải không?

Hải Hiền cười:

– Chị hiền hơn sư tử, ngang với cọp, hơn beo, chứ đâu có dữ!!!

Vương phi tát yêu Hải Hiền:

– Như vậy em chê sư tỷ dữ như cọp, dữ hơn beo!

– Mỗi lần chị nhìn bọn em, bọn em cảm thấy ớn lạnh, da gà nổi lên. Chị ra lệnh, bọn em chỉ biết răm rắp tuân theo, mà không dám nhìn mặt.

Vương hỏi:

– Chúng tôi thành vợ chồng đã trên ba năm, mà sao vẫn chưa có con?

– Tướng mệnh của hai vị mạnh quá nên hiếm muộn mà thôi. Tương lai sẽ chỉ có một thế tử. Đây là một đồng tử giáng sinh. Cực kỳ khôi ngô, văn mô, vũ lược, võ công cao siêu không biết đâu mà lường. Sự nghiệp vĩ đại, trở thành đại anh hùng, hộ quốc, cứu dân. Nhưng!

–?!?!?!

– Thế tử sẽ phải xa cách cha mẹ từ thơ ấu!

– Như vậy là mồ côi sao?

– Không! Thế tử sẽ do ông bà quá yêu thương, đem về nuôi dưỡng mà thôi.

Thấy Gia Huyễn Ông ngừng lại, Thúy Hồng hỏi:

– Thưa tiên sinh thế còn tướng của vương gia?

– Vương gia sinh ra để ngồi trên mình ngựa cứu dân. Sự nghiệp vĩ đại vô cùng. Nghìn năm sau, vạn năm sau dân chúng còn thờ kính. Vương gia sinh ra ở Nam thiên, nhưng lại vì Trung thổ mà xuất mã. Có điều vương gia là con trưởng, nhưng lại không được hưởng quyền làm trưởng. Tuy nhiên uy áp anh em. Trong nhà anh em đều kính phục, chứ không bị ghen tỵ.

Ông quay lại Địa Lô:

– Người Việt ca tụng Văn Bắc thượng tướng quân là Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử. Còn tôi, tôi muốn đổi là Thiên hạ đệ nhất tài tử. Cái mỹ danh Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử làm cho tướng quân lận đận duyên tình đến mấy phen mới yên cửa nhà.

Ngọc Hồng hỏi:

– Thưa tiên sinh, sau hai lần lận đận, lần thứ ba đã yên chưa ạ?

– Phu nhân ơi! Yên rồi! Tướng quân đây lận đận đến ba phen. Tới phu nhân là bốn đấy. Tướng phu nhân quá mạnh nên trấn áp được cái lận dận của tướng quân.

Ông lắc đầu:

– Người thứ nhất thuộc giới tài tử, nhan sắc diễm lệ. Người này chăng lưới bắt tướng quân. Nhưng không thành.

Dã Tượng nhìn Địa Lô gật đầu cười khúc khích.

– Người thứ nhì thuộc cành vàng, lá ngọc. Võ công tuyệt đỉnh, bác học đa năng, tưởng đâu sẽ thành đôi giai ngẫu. Ai ngờ phải cách xa. Lần thứ ba là một đấng sắc nước hương trời, rồi lại đứt đoạn.

Ngọc Hồng đưa mắt hỏi chồng:

– Tiên sinh nói anh trải qua bốn lần. Bốn lần, thế thì đi đâu mất một lần?

Dã Tượng vốn ít nói, bá thấy cô em dâu ngơ ngác như nai tơ thì phì cười:

– Em ơi, ngũ đệ bị một người sắc nước hương trời giả đau bụng xin chữa bệnh, rồi định bắt tươi; một tẹo nữa thì nai mắc lưới. Vụ đó chỉ mình anh biết thôi.

Gia Huyễn ông mỉm cười:

– Phu nhân nhớ nhé, những ách cũ của tướng quân chỉ mới tạm qua thôi. Tơ vương như ngó sen, tuy dứt mà trong lòng chưa sạch. Tương lai tướng quân sẽ còn gặp lại người cũ. Mà hỡi ơi, duyên tình có vạn nẻo, khó nói lắm. Phải cẩn thận, bằng không thì đệ nhất mỹ nam tử bị bắt tươi ngay đấy.

Nghe Gia Huyễn Ông nói, mặt Ngọc Hồng tái xanh:

– Như vậy có thể, họ gặp lại nhau, rồi nối lại tình duyên không ạ?

– Phu nhân sợ ư? Phu nhân với tướng quân thành hôn do Đại Việt hoàng đế đứng chủ hôn, thì dù thế nào chăng nữa, tướng quân cũng không dám đèo bồng đâu! Vả tướng quân là đấng anh hùng bất quá gặp người cũ thì chỉ ăn quà, rồi lại trở về với vợ chứ đâu dám gì gì. Mặt khác phu nhân nhận tước phong của triều đình Đại Việt thì người cũ của tướng quân có tái xuất hiện thì phu nhân vẫn là phu nhân.

– Thưa tiên sinh, dĩ nhiên tôi không bị chồng bỏ, để tái hồi với người xưa. Tiên sinh có cách nào trấn áp được cái đào hoa của phu quân tôi không?

– Không có cách nào cả. Sau này tướng quân còn gặp nhiều đấng má đào nữa, chứ không phải chỉ có 4 thôi đâu. Xin lỗi phu nhân, tướng quân là chồng của phu nhân, chứ không phải món đồ bán cho phu nhân. Đừng bao giờ phu nhân nghĩ tướng quân là của riêng mình như con chim, con ngựa.

Ngọc Hồng xấu hổ, ngồi im, trong lòng ấm ức không nguôi.

Từ đầu đến cuối, Thúy Hồng ngồi nghe, bây giờ nàng mới dám xen vào:

– Tiên sinh ơi! Còn tướng mệnh của tôi ra sao?

Gia Huyễn Ông chắp tay:

– A Di Đà Phật! Phu nhân là một Bồ tát giáng thế để cứu dân. Khi làm trọn đạo tôi con với nước, trọn đạo tao khang với chồng, thì lại vui với chốn Không môn để độ cho chúng sinh thoát khỏi trầm luân. A Di Đà Phật! Cuộc đời phu nhân, cũng như nhan sắc phu nhân đẹp quá. Đẹp như bông sen ban mai vậy.

– Thưa tiên sinh, chúng tôi thành vợ chồng đã gần năm mà chưa sinh con. Vậy chúng tôi có bao nhiêu con?

Gia Huyễn Ông tính toán một lúc rồi mỉm cười:

– Phu nhân với tướng quân có 3 trai, 2 gái. Thời gian có con không xa đâu.

Trong khi Gia Huyễn Ông mải coi tướng, thì Ý Ninh cho mời bốn nàng Ngọc Kỳ, Ngọc Quốc, Ngọc Trí, và Ngọc Cách cùng ra, rồi tấu nhạc, ngâm thơ, ca hát.

Tạ Phương Đắc nhìn Thúy Hồng với bốn nàng Ngọc, ông mỉm cười:

– Mông cổ là bọn rợ, sống ở vùng Thảo nguyên. Về mùa Đông thì lạnh xé da, cắt thịt. Về mùa hạ thì nóng như thiêu như đốt. Chúng lại không có văn hóa, con gái thô lậu, cộc cằn. Nên từ tướng cho đến quân khi vào Trung nguyên, Cao ly, Đại lý, Đại Việt đều lấy vợ, tuyển thiếp ở dây. Xin lỗi vương gia, với sắc diện của Vương phi, Trang văn công chúa Thúy Hồng cùng bốn giai nhân này, mà bọn Mông cổ thấy được thì chúng sẽ say mê đến điên đảo hồn phách.

Văn Thiên Tường tiếp:

– Tôi nghe cao nhất là Mông Ca, cho đến Hốt Tất Liệt, A Lý Bất Ca, dĩ chí các tướng như A Truật, A Lan Đáp Nhi v. v. Mỗi người đều nạp một giai nhân Việt làm vương phi, làm phu nhân. Tất cả đều nhờ vương phi tác thành cho. Tôi cứ nghĩ rằng vương phi phải là một bà bà trên 60 tuổi. Nào ngờ vương phi chỉ là một thiếu phụ trên dưới hai mươi. Hà! Đại Việt có nhiều nữ lưu tài trí quá. Khi còn ở Lâm An, nghe nói về vương phi, tôi không tin cho lắm. Hôm nay tôi mới tin, vừa tin, vừa phục. Nếu như bốn cô Ngọc này chỉ có nhan sắc thôi thì cũng khó làm anh hùng rơi kiếm. Nhưng khi các cô hát, múa, thân thể uốn lượn thì các anh hùng bị hút vào đôi mắt của các nàng hết.

Ngọc Hồng chỉ 4 nàng Ngọc hỏi Gia Huyễn Ông:

– Bốn cô em này nhan sắc diễm lệ, cầm ca là những đấng tài hoa. Không biết sự nghiệp sau ra sao? Mong tiên sinh ban cho mấy lời!

Gia Huyễn Ông chỉ Ngọc Kỳ:

– Trong bốn vị tiểu cô nương, thì vị vô nương này tướng mệnh tốt nhất. Tương lai sẽ hưởng địa vị cực quý, cực phú. Thân thể ngực nở lưng thon, chân dài, ngón tay búp măng, mắt đen nháy, bóng như ngọc, lòng trắng trong. Khi nhìn người nào, như hút vào trong. Thì sự nghiệp trọn vẹn. Da trắng, môi hồng, tóc óng mượt. Chắc chắn sẽ là ngồi vào vị trí mẫu nghi thiên hạ. Sinh ba trai, đều là đại qúy tử. Nhưng than ôi, hồng nhan bạc mệnh, tuổi trời không làm bao. Hoa tàn khi còn đầy hương sắc.

Ông chỉ ba nàng Ngọc Trí, Ngọc Quốc, Ngọc Cách:

– Bốn vị cô nương này, trời cho một tấm nhan sắc khuynh quốc, sớm gặp được đấng trượng phu thuộc loại chọc trời khuấy nước, sủng ái cùng cực.

Thúy Hồng thắc mắc:

– Thưa tiên sinh có cách nào cải được mệnh không?

– Mệnh trời đã định thì không cách nào đổi được.

Chiều hôm ấy, cơm nước xong, Vương Kiên mới hỏi Văn Thiên Tường vào Ích châu có việc gì? Thiên Tường buồn buồn nói:

– Tôi vào Ích châu có hai việc. Viêc thứ nhất là hỏi ý kiến Vương Tiết độ sứ: Hốt Tất Liệt là thiên tài về quân sự. Y lại học đến cùng kỳ cực về học thuật của Trung nguyên. Y tận dụng Hán pháp, trọng dụng người Hán. Bất cứ tướng sĩ, nhân tài nào y cũng dùng, không nghi ngờ. Vì vậy khi y đi đến đâu thì nhân tài theo y như theo các vua Hán, Đường. Có không biết bao nhiêu tướng tài đem thành trì, tướng sĩ theo y. Cho nên, y thắng như chẻ tre. Hiện y dang vây Ngạc châu, Tương dương, Phàn thành rất gấp. Triều đình cử tôi vào Thục duyệt xét tình hình. Tể tướng Giả Tự Đạo chủ trương đầu hàng: chịu tiến cống, chịu nộp vàng bạc, lụa là để chúng bãi binh. Vậy ý Tiết độ sứ thế nào?

Vương Kiên than:

– Trong các mặt trận, thì Ích châu là ải địa đầu ngăn mũi nhọn mãnh liệt nhất của Mông cổ. Nếu không có Đại Việt trợ thì e đã mất rồi. Bây giờ Ích châu chiếm được thượng phong. Nếu như trận đánh mai này thành công, thì Mông Ca phải rút quân. Tôi sẽ đuổi y tới Phù phong, Trường an. Bấy giờ Tương Dương, Phàn Thành thừa thắng phản công, thì tội gì ta phải chịu nhục ký thỏa ước thành hạ, dâng vàng ngọc, lụa là cho chúng?

Vũ Uy vương tiếp lời Vương Kiên:

– Nếu như chúng tôi thắng thì sẽ tiếp tục đuổi Mông Ca ra khỏi Thục. Có thể đánh chiếm Phù phong, Trường an. Tể tướng Giả Tự Đạo hàng chúng là truyện của Tể tướng. Binh thư có câu: tướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải tuân lệnh vua. Chúng tôi không tuân.

Văn Thiên Tường xua tay:

– Vương gia ơi! Cái việc t ướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải tuân chỉ vua không thể áp dụng tại triều Tống được.

Vương phi Ý Ninh kinh ngạc:

– Sao vậy?

– Truyện này thời Thiệu Hưng đã xẩy ra rồi. Kết quả thực là thảm khốc. Các anh hùng Trương Tuấn, Nhạc Phi bị giết cả nhà. Thân thể bị đem bêu ở chợ cho ruồi bu, cho quạ rỉa. Vợ, con gái bị gửi ra mặït trận cho quân sĩ giải trí.

Vũ Uy vương hỏi:

– Truyện ấy như thế nào?

Gia Huyễn Ông giảng giải:

– Thời Tĩnh khang, hai vua Khâm Tông và Huy Tông bị Kim bắt đem về Bắc, thì hoàng tử Triệu Cấu, tước phong Khang vương vượt Trường giang xuống Nam hô hào sĩ dân khởi binh đuổi giặc. Rồi lên ngôi vua, tức Thiệu Hưng hoàng đế. Hai vua tuy bị bắt nhưng quân tại các trấn còn nguyên. Bấy giờ có 5 đại hào kiệt, được danh sĩ tặng cho mỹ danh Trường giang ngũ kiệt. Đó là Hàn Thế-Trung, Trương Tuấn, Ngô Giới, Ngô Lân, Nhạc Phi. Năm người đánh những trận long trời lở đất, chiếm lại được hầu hết các vùng ở phía Nam, Đông. Nhạc Phi tiến nhanh nhất, sắp tới Tru tiên trấn. Ông chỉ dơ tay ra là chiếm lại được kinh đô. Trong triều Tể tướng Tần Cối chủ hòa cắt đất dâng cho giặc. Y tâu vua gọi Nhạc Phi về. Nhưng Phi cứ tiến quân. Một ngày nhà vua phát tới 13 kim bài bắt rút quân. Nhạc Phi về triều bị kết tội bất tuân chỉ, bị giết cùng với con nuôi là tướng Nhạc Vân. Thây bị đem phơi nắng, phơi mưa cho ruồi bu, cho quạ rỉa. Vợ với con gái bị đem ra biên cương cho binh lính giải trí.

Tạ Phương Đắc tiếp lời Gia Huyễn Ông:

– Nếu như triều đình chủ hàng Mông cổ, mà chúng ta vẫn tiến quân, thì cái họa như Nhạc Phi, Trương Tuấn lại tái diễn với Vương tổng trấn, với tôi. Tôi định mai này xin Vương Tiết độ sứ cho tôi theo Văn Thái phó về triều tường trình mặt trận Ích châu. Tôi sẽ tranh luận về việc chiến hay hàng. Trong triều còn nhiều người khí tiết không lẽ Tống triều chỉ có Vương Tiết độ sứ? Gia Huyễn huynh? Văn Thái phó? Dù tan xương nát thịt tôi cũng không từ!

Vương phi Ý Ninh khen:

– Thực là những lời đầy chính khí.

Vương phi đưa mắt nhìn vương, nhìn Dã Tượng, nhìn Yết Kiêu, nhìn Địa Lô rồi nhìn Đô thống Lý Long Đại, Vũ Trang Hồng; Trần Long Nhất, Phạm Trang Tiên; Vũ Long Nhị, Hoàng Trang Liên; Phạm Long Tam; Hoàng Long Tứ.

Văn Thiên Tường hiểu ý phi. Ông nói với Tạ Phương Đắc:

– Tạ Thái bảo! Đúng là mệnh trời, Tống gặp đường cùng thì các anh hùng Nam phương hội lại đây với chính khí dọc ngang trời đất. Chúng tôi: Vương Kiên, Gia Huyễn Ông, Văn Thiên Tường với các anh hùng Nam phương cùng một hùng tâm như người. Người không cô đơn đâu! Người cứ về triều tranh luận.

Hoàng Kiếm đứng dậy nói:

– Văn Thái phó! Xin Thái phó cho anh em tôi biết những tên nào trong phe đảng của Giả Tự Đạo. Chúng tôi về Lâm an, nhập dinh thự chúng, giết chúng đi, thực giản dị.

– Hoàng hiệp ơi! Không dễ đâu. Đã có nhiều anh hùng hiệp sĩ hành sự, nhưng đều thất bại. Đầu tiên một hòa thượng đột nhập vào dinh y, tìm đến phòng ngủ y hành sự. Nhưng người bị giết là một tên hầu cận, đóng vai y. Lần thứ nhì là ba hiệp sĩ giả làm phu đẩy xe chở đá đón chờ trên đường y thiết triều trở về. Cả ba dùng chùy đập vào xe y thì bị cận vệ của y vây đánh. Cả ba bị giết.

Nguyễn Văn Lập hỏi Địa Lô:

– Văn Bắc thượng tướng quân, có thứ thuốc độc nào ăn vào vô hương, vô vị, không?

– Ý Kiêu kị tướng quân muốn đánh thuốc độc y ư?

– Đúng thế.

– Có thì có đấy, song làm thế nào bỏ vào thức ăn của y được?

Hoàng Hiệp nói:

– Chúng tôi sẽ nhập dinh y, bỏ vào tất cả các bình rượu của y. Y uống vào thì phải chết.

Địa Lô trở về phòng mình, một lát đem ra hai cái ống tre nhỏ:

– Đây là hai thứ thuốc kịch độc. Chỉ cần uống một giọt thì khỏe như voi cũng chết.

Hoàng Hiệp tiếp thuốc rồi nói với các em:

– Chúng ta hành sự một phen.

Văn Thiên Tường khen:

– Thực là những người chính khí dọc ngang trời đất.

Thình lình ông đứng lên, rồi ứng khẩu dõng dạc đọc:

Thiên địa hữu chính khí,

Tạp nhiên phú lưu hình,
Hạ tắc vi hà nhạc,
Thượng tắc vi nhật tinh.
Ư nhân viết hạo nhiên.
Bái hồ tắc thương minh,
Hoàng lộ đương thanh di,
Hàm hòa thổ minh đình*
Thời cùng tiết nãi hiện,
Nhất nhất thùy đan thanh.

Ghi chú.

Sau này cụ Nguyễn Công Trứ trong bài Kẻ sĩ lấy ý trong hai câu này như sau:
Trong lăng miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thùy vạch mũi Can Tương.

Vì Văn Thiên Tường đọc bằng âm Lâm An, nên các tướng Việt hiểu không hết.Thúy Hồng xin phép diễn giải ra tiếng Việt:

Trong trời đất có chính khí,
Phân tán thành nhiều hình thể khác nhau.
Dưới thì là sông núi,
Trên là mặt trời và các sao.
Ở nơi người là khí hạo nhiên,
Đầy rẫy, tràn ngập bầu trời.
Khi đường vua gặp lúc thanh bình,
Ngậm hài hòa nhả trong sân sáng.
Lúc khốn cùng tiết mới hiện ra.
Tất cả đều để lại nét đẹp.

Giảng dứt, nàng vẫy tay, Ngọc Hồng đánh trống mảnh, Ngọc Kỳ kéo nhị, Ngọc Quốc thổi tiêu, Ngọc Trí đánh đàn tranh, Ngọc Cách đánh đàn bầu. Nàng cất tiếng ngâm. Thúy Hồng ngâm dứt, Địa Lô biến thành điệu hát Xẩm. Hát dứt Địa Lô khoanh tay một vòng, nhạc trỗi lên, tất cả cùng cất tiếng ngâm.

Nước mắt rưng rưng, Văn Thiên Tường cảm động:

– Đa tạ các tài tử, các tiên Đại Việt đã làm đẹp bài thơ của tôi.

Ghi chú, 
Về nguồn gốc bài Chính khí ca, có hai: 
– Thuyết thứ nhất nói, ông làm bài này trong thời gian bị giam tại Yên kinh.

– Lại có thuyết nói, ông làm 10 câu đầu trong lúc vào Ích châu duyệt tình hình. Phần còn lại ông làm tiếp khi bị giam tại Yên kinh.

Tôi thuật theo thuyết thứ nhì. 
Bài Chính khí ca ảnh hưởng rất lớn trong văn học, tư tưởng Trung quốc, Nhật bản, Cao ly và Việt Nam. 
Hồi niên thiếu, khi thăm các vị tiền bối nho học, tôi thường thấy trong phòng sách của các ngưới có các bức trướng chép những bài sau: 
– 2 bài Xuất sư biểu của Gia Cát Lượng,

– Bài Chính khí ca của Văn Thiên Tường,
– Bài Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo vương,
– Bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.

Năm 9 tuổi, tôi được tiền nhân giảng rất kỹ bài Chính khí ca, rồi bắt học thuộc lòng. Bài thơ ảnh hưởng vào cuộc sống của tôi rất nhiều. Sau này lớn lên, tại văn phòng, tại phòng khách, tôi luôn trang trí các bức trướng trên viết: 
– 2 bài Xuất sư biểu.

– Bài Chính khí ca,
– Bài Hịch tướng sĩ.

Văn Thiên Tường chỉ các tướng Việt:

– Từ Nam phương, các vị hiện diện tại đây giúp chúng tôi chống Thát đát, chính khí của các vị cao vòi vọi. Thiên Tường này không đủ chữ để tạ các vị.

Nói rồi ông chắp tay xá ba xá, với tất cả thành kính.

Vương Kiên hỏi Văn Thiên Tường:

– Thái phó nói vào Thục có hai điều. Điều thứ nhất là hỏi ý kiến tôi. Vậy còn điều thứ nhì?

– Điều thứ nhì là triều đình biết ơn Đại Việt trợ Tống. Nên đã sai sứ sang Đại Việt tạ ơn. Còn tôi vào đây xin Vũ Uy vương trao sổ ghi công, để triều đình còn phong chức tước lao tưởng cho chư tướng Việt!

Dã Tượng chắp tay xá Văn Thiên Tường:

– Đa tạ hoàng đế và Tống triều. Chúng tôi đã được triều đình Việt phong cho chức tước rồi!

Tạ Phương Đắc lên tiếng:

– Tả thiên ngưu vệ đại tướng quân là đấng anh hùng nên không nghĩ đến chức tước. Nhưng thưa tướng quân từ xưa đến giờ có không biết bao nhiêu anh hùng Việt đã từng nhận chức tước của Hoa hạ. Nay triều đình chỉ noi theo việc xưa mà thôi.

Văn Thiên Tường tiếp:

– Aáy là nói đến tướng sĩ Việt. Còn Phùng sư phó, còn hơn nghìn võ sĩ Trung nguyên với hơn vạn Hoa kiều ở Đại Việt đã lập đại công. Triều đình phải phong chức tước cho họ để lao tưởng, để khuyến khích.

Vũ Uy vương sai sao chép sổ ghi công từ khi chuẩn bị lên đường trợ Tống, trao choVăn Thiên Tường.

Trước khi Văn Thiên Tường, cùng Tạ Phương Đắc rời Thục. Tạ Phương Đắc chỉ nhóm Mê linh kiếm trận, nói với vương phi Ý Ninh:

– Trong những ngày ở đây, tôi được làm quen, được hiểu nhiều về tài năng của các em trong hai đội Mê linh kiếm trận. Các em xin học về văn chương, về thi phú, về Bách gia chư tử, về tiếng Hán vùng Lâm an. Tôi hết lòng truyền thụ sở học cho các em. Vì vậy giữa chúng tôi và các em đã thành bạn vong niên. Đường từ đây đi Lâm an không được an ninh cho lắm. Tôi lớn mật xin vương phi cho mượn hai em Sơn Đức, Sơn Cao theo, phòng bất trắc.

Vương phi Ý Ninh hướng Sơn Đức, Sơn Cao. Phi hỏi:

– Hai em được một đại danh sĩ dạy chữ thánh hiền cho. Sự việc như thế nào?

Sơn Cao bẽn lẽn:

– Hằng ngày chúng em chỉ dành có một giờ luyện kiếm, ở không cũng buồn. Vì vậy chúng em đem sách chữ Hán ra đọc. Chỗ nào không hiểu thì hỏi thầy Tạ Phương Đắc. Không những thầy chỉ bảo, mà thầy còn dạy cho tất cả chúng em về học thuật, tư tưởng, thi văn Trung nguyên. Nhưng thầy chỉ nhận kết bạn với chúng em, mà không chịu cho chúng em gọi bằng thầy.

– Ai dạy ta một chữ là thầy ta. Ai dạy ta nửa chữ cũng là thầy. Học thầy không tầy học bạn. Các em được một danh sĩ hết lòng dạy bảo. Bây giờ thầy muốn mượn hai em theo hộ vệ. Các em tính sao?

Sơn Cao vui vẻ:

– Sư phụ sai chúng em theo sư tỷ với mục đích đem võ công trợ Tống. Nay sư tỷ ban chỉ cho chúng em theo thầy Tạ Phương Đắc để bảo vệ thầy, thì đúng như chỉ dụ của sư phụ. Chúng em hứa sẽ làm tròn bổn phận.

Vũ Uy vương ban chỉ:

– Các em đều biết chỉ huy chim ưng. Vậy phi gửi theo các em một cặp để liên lạc với chúng ta.

Tiễn Văn Thiên Tường, Tạ Phương Đắc lên đường về Lâm an, Vương Kiên hội các tướng sĩ lại. Ông bưng ấn kiếm trao cho Vũ Uy vương:

– Xin vương gia trợ Tống.

Không khiêm tốn, Vũ Uy vương tiếp ấn kiếm. Vương nói:

– Từ khi chúng tôi sang đây đã đánh nhiều trận, song những trận đó chỉ là những trận giải quyết các vấn đề để chuẩn bị cho trận đánh chính. Trận này tôi ước tính sẽ diễn ra trong ít nhất ba ngày. Chúng ta sẽ trải qua 3 ngày trời sầu đất thảm. Nếu ta thắng hay hòa thì Mông Ca cũng phải rút binh. Còn như ta bại thì mất toàn bộ Ích châu. Triều đình sẽ hàng Mông cổ.

Các tướng im lặng nghe.

– Từ thời Thành Cát Tư Hãn đến giờ, trong mọi trận đánh, Mông Cổ luôn chủ động, đặt đối phương vào thế bị động. Bắt đối phương phải chấp nhận chiến địa do họ chọn. Bây giờ ta lật ngược lại. Ta dành thế chủ động. Chiến trường do ta chọn.

Trong phòng họp tướng sĩ đến hơn trăm người, mà im phăng phắc. Vương tiếp:

– Chiến trường ta chọn là Hợp châu, Bồ lăng, Giang an, trên một tuyến dài hơn 500 dặm (250 km). Hợp châu thì thành Điếu ngư rất chắc, đích thân Mông Ca đốc chiến. Khu dàn binh của họ có con sông khá sâu, mà họ không có thủy quân. Ta có thể lợi dụng sông này đánh vào lưng họ.

Vương tiếp:

– Chiến trường Bồ lăng, địa thế rất thấp, xung quanh là đồng lầy. Đây là ngã ba sông Trường giang với Ô giang. Kị binh vô dụng. Ta có thể dùng Ngưu binh. Còn chiến trường Giang an, là nơi bốn con sông giao nhau. Ta tận dụng thủy quân được.

Vương nói thực chậm:

– Hiện Mông cổ hết sạch lương rồi. Tin mới nhất cho biết, y sẽ sai Xích Nhân Thiết Mộc Nhi đem 4 vạn kị binh đánh Bồ lăng, Giang an. Y trao cho Mục Tương Ca chỉ huy 5 vạn kị binh, 5 vạn bộ binh đánh Điếu ngư. Còn ta, lực lượng ta có bao nhiêu?

Gia Huyễn Ông trình bầy:

– Bộ binh Tống tại Ích châu có 20 hiệu. Hiện 11 hiệu đang chiến đấu ở vùng Ba trung. Còn tại đây ta có 9 hiệu là Bồ lăng, Điếu ngư, Chiêu thông, Giang an, Dương bình quan, Thành đô, Kiếm các, Cẩm dương, Phổ khách. Ba hiệu Điếu ngư, Bồ lăng, Chiêu thông, lúc nào cũng sẵn sàng. Hiệu Giang an thì chia nhau trấn Thành đô, Mi sơn, Đông sơn, Phong đô không thể tham chiến. Năm hiệu mới tái lập Thành đô, Kiếm các, Dương bình quan, Cẩm dương, Phổ khách; thì hiệu Thành đô, Dương bình quan chia ra trấn từ Giang an đến Độ khẩu. Còn ba hiệu Kiếm các, Cẩm dương, Phổ khách tinh lực khá mạnh.

Địa Lô trình bầy:

– Quân viện Việt có hai hiệu Văn Bắc, Thiệu Hưng trang bị cực kỳ hùng mạnh. Tinh thần chiến đấu hăng say, nhất là hiệu Thiệu Hưng tinh thần Hoa kiều cao ngất trời.

Vũ Uy vương ban lệnh:

– Trong ba mặt trận, thì mặt trận Bồ lăng quan trong nhất. Mông Ca đã sai Xích Nhân Thiết Mộc Nhi chỉ huy. Với lệnh thép: bằng mọi giá xử dụng 4 vạn kị binh phải chiếm cho được Bồ lăng rồi sẽ đánh Giang an là hai kho lương.

Vương nói thực chậm:

– Mông cổ từ xa đến, không biết rõ địa hình, địa vật, tôi đề nghị để hiệu Bồ lăng trấn tại đây. Ta cũng cần một hiệu binh dũng cảm, thiện chiến hỗ trợ. Về tướng cần một người mưu trí. Nội trong chúng ta ở đây phi Long nhương thượng tướng quân Gia Huyễn Ông không ai đương nổi.

Gia Huyễn Ông khẳng khái:

– Đa tạ vương gia tin dụng. Địa thế Bồ lăng có nhiều đồng lầy, kị binh Mông cổ không dễ gì tung hoành được. Tôi xin vương gia viện cho hiệu Thiệu Hưng. Hiệu này gồm toàn Hoa kiều, chính khí cao ngất trời. Hơn nữa 8 tướng của hiệu này đều xuất thân từ Ngưu binh Đại Việt như Đô thống Lý Long Đại, Vũ Trang Hồng; Trần Long Nhất, Phạm Trang Tiên; Vũ Long Nhị, Hoàng Trang Liên; Phạm Long Tam; Hoàng Long Tứ. Các tướng này rất kinh nghiệm trong chiến tranh sình lầy. Hiệu Thiệu Hưng có một Vệ Ngưu binh, xin cho tôi thêm Vệ Ngưu binh của hiệu Văn Bắc. Như vậy tôi mới yên tâm.

Vũ Uy vương gật đầu:

– Gia Huyễn danh sĩ tính toán như vậy thực phải. Thống lĩnh hiệu Thiệu Hưng là Hữu thiên ngưu vệ thượng tướng quân là Trần Quốc Vỹ rất giỏi về thủy chiến sẽ chỉ huy các Ngưu tướng đánh địch. Tôi tăng viện hai Vệ Ngạc ngư theo Quốc Vỹ, nếu như Mông cổ dùng thủy quân từ Trường giang đánh vào hông Bồ lăng, còn có Ngạc ngư trị chúng.

Vương Kiên góp ý:

– Như vậy tổng trấn Bồ lăng là Hữu thiên ngưu vệ Thượng tướng quân Trần Quốc Vỹ. Phó là Thành tâm hầu Gia Huyễn Ông. Phụ trấn là Phùng sư phó. Quân cơ hữu là hiệu Bồ lăng, Thiệu Hưng. Tôi viện thêm hiệu Kiếm các đến trợ chiến. Tổng cộng mặt trận này có ba hiệu binh. Thêm hai vệ Ngưu binh, hai Vệ ngạc Ngư.

Vũ Uy vương tiếp:

– Mặt trận Giang an thì tôi xin Đô đốc Triệu Tử Minh trấn thủ. Quân cơ hữu có hiệu Cẩm dương, Phổ khách. Đô đốc phải sẵn sàng, vì nếu mặt trận Bồ lăng vỡ thì Mông cổ sẽ tràn xuống đánh cướp lương thảo. Trường hợp này phải tử chiến. Nếu thấy nguy cơ bị tràn ngập, phải đốt hết lương, không cho lọt vào tay giặc. Phía sau Đô đốc, lực lương Cần vương Đại lý có hơn vạn người, sẵn sàng hỗ trợ Đô đốc khi cần.

Vũ Uy vương tiếp:

– Tất cả binh tướng còn lại sẽ dự trận Điếu ngư. Trận Điếu ngư sẽ do Vương Tiết độ sứ đốc chiến. Thêm Kiêu kị thượng tướng quân Nguyễn Văn Lập phòng thủ.

Các tướng rời thành, trở về điều quân.

Trong trướng thành Điếu ngư: ngồi chính giữa là Vũ Uy vương. Bên trái vương là Tổng trấn Ích châu Vương Kiên. Bên phải là Kiêu kị thượng tướng quân Nguyễn Văn Lập. Bên dưới các tướng Tống Việt ngồi im lặng nghe lệnh. Vương hỏi Vương Kiên:

– Quân cơ hữu của Điếu ngư có hiệu Điếu ngư, hiệu Chiêu thông rất thiện chiến, vẫn trấn tại đây. Không biết Tiết độ sứ có cần tăng thêm không?

– Thành Điếu ngư không rộng, hai hiệu binh đủ rồi.

Vũ Uy vương hỏi Địa Lô:

– Văn Bắc thượng tướng quân, thuốc làm cho ngựa nhuyễn cân mà tướng quân chế, hiệu năng như thế nào? Tướng quân đã chế được bao nhiêu cân rồi?

– Khải vương gia, thuốc này khi ngựa ăn phải thì hai giờ sau mới bị phản ứng. Đầu tiên ngựa bị đau bụng, tiêu chảy trong một giờ, nhưng vẫn chạy được như thường. Sau ba giờ thì gân cốt mềm nhuyễn, không phi được, phải nằm bẹp xuống đất trong suốt 6 giờ. Thần đã chế đủ để thuốc 4 vạn ngựa.

– Trao cho Đại Đởm đại tướng quân số thuốc đủ trị một vạn ngưa. Còn lại trao cho Tả thiên ngưu vệ đại tướng quân Dã Tượng.

Vương hỏi Nguyễn Thiên Sanh:

– Tướng quân nói đã đột nhập doanh trại Mông cổ. Đó là doanh trại nào?

Nguyễn Thiên Sanh báo cáo:

– Sau khi đốt phá hai đoàn tải lương của Mông Ca. Chúng tôi rút về ẩn trong một con thuyền lớn. Chúng tôi đã đột nhập vào toàn bộ doanh trại của Mông cổ, biết rất rõ vị trí đóng quân của chúng. Không biết trong trận đánh này vương gia trao cho nhiệm vụ gì?

Vũ Uy vương ngợi khen:

– Đại tướng quân đã hoàn thành được trọn vẹn nhiệm vụ trao cho. Bây giờ tướng quân lại nhận nhiệm vụ kinh khủng nữa.

Mọi người im lặng nghe xem đó là nhiệm vụ gì?

– Sáng mai giờ Mão (4-6 giờ sáng) thì Mông cổ xuất binh. Đêm nay tướng quân lẻn vào tầu ngựa kéo xe của chúng, bỏ thuốc nhuyễn cân vào nước uống của ngựa vào giờ Sửu (2-4 giờ sáng).

Thiên Sanh hiểu:

– Như vậy ngựa đó sẽ vô dụng vào giờ Mão, giờ Thìn. Giờ đó là trọng điểm tấn công của giặc. Nhưng vương gia ơi! Tại sao không đánh thuốc độc vào tầu ngựa chiến mà lại đánh ngựa kéo xe?

– Ngày mai chúng sẽ dùng xe chở chất nổ phá thành và chở xe bắn đá. Chúng ta cần làm tê liệt hai đạo binh này. Ngoài việc đầu độc ngựa kéo xe, tùy nghi, tướng quân làm được việc gì khác, tùy sáng kiến của tướng quân. Thôi bây giờ trưa rồi, tướng quân có thể trở điều động anh em đi là vừa.

Vũ Uy vương nói với Nguyễn Văn Lập:

– Ngày mai Mông Ca sẽ dùng nhiều cao thủ leo lên thành Điếu ngư. Lực lượng cao thủ của y không nhiều so với ta. Ở đây có gần nghìn cao thủ Hán, từng theo Ngột Lương Hợp Thai đánh Đại Việt, nay xin trở về quê hương diệt Thát đát. Tôi đã chia làm 18 đội. Mỗi đội 50 người, do một sư phụ, đệ tử của Thiên Phong đại sư làm đội trưởng. Vậy tôi xin trao cho Kiêu kị thượng tướng quân 10 đội để giữ thành. Còn 40 đội, thì tôi viện cho Bồ lăng 20, Giang an 10, hiệu Văn Bắc 10. Ngoài ra tướng quân còn Hoa sơn ngũ hiệp 10 vị, Kim sơn tam kiệt ba vị. Không biết như vậy đủ chưa?

Nguyễn Văn Lập vui vẻ:

– Đủ rồi.

– Tôi tăng viện cho Điếu ngư Văn Bắc thượng tướng quân với 2 Vệ nỏ thần, 2 vệ Lôi tiễn, với số lượng tên, Lôi tiễn gấp 10 lần. Không còn sợ hết tên, hết Lôi tiễn như trận vừa rồi.

– Ngày mai, sau khi Mông Ca đem quân vây Điếu ngư, thì bốn vạn kị binh Mông cổ do Xích Nhân Thiết Mộc Nhi vượt Điếu ngư đi Bồ lăng. Còn Mông Ca sau khi Mục Tương Ca công thành một vài giờ không kết quả, ắt y sẽ đi Bồ lăng đốc chiến. Thói quen của y, khi thị sát, đốc chiến, bao giờ cũng chỉ có năm bách phu Cấm quân theo hộ tống. Giữa Bồ lăng và Điếu ngư có khu rừng cỏ Trường thảo dài khoảng 10 dặm, Tả thiên ngưu vệ đại tướng quân đem đạo binh Văn Bắc ém tại đây. Đợi cho bốn vạn kị binh của Xích Nhân Thiết Mộc Nhi đi rồi phục trong khu rừng này. Khi Mông Ca qua thì đổ ra đánh, phải đánh thực mau, thực gọn, bằng không kị binh từ Điếu ngư, Bồ lăng kéo đến tiếp viện thì nguy. Sau khi diệt hết bọn này thì thiết lập chướng ngại, không cho bọn Xích Nhân Thiết Mộc Nhi rút về Điếu ngư. Cuộc phục kích Mông Ca không nguy hiểm cho lắm. Mà cuộc chặn đường bọn Xích Nhân Thiết Mộc Nhi mới thực sự nguy hiểm. Tuyệt đối tránh dàn trận giao chiến. Tuy quân số của chúng đông, nhưng chúng mang theo có một ngày lương. Dù chúng có tới bốn vạn kị binh mà phía trước tiến lên đánh Bồ lăng thì không được, nay rút về thì không xong. Chỉ cần trấn một ngày, chúng hết lương ắt phải tan.

Vương nói với vương phi:

– Bốn tướng chỉ huy Cấm vệ phi đều biết. Chúng chịu ơn phi cực sâu như mẹ chúng. Tuy nhiên bọn A Lý Hải Nha mới gửi thêm tên Ô Mã Nhi đem theo một bách phu Cấm vệ nữa để hộ vệ Mông Ca. Tên này võ công rất cao cường. Dã Tượng không phải đối thủ của y. Vậy vương phi với Thúy Hồng theo giúp Dã Tượng để khống chế y. Vương phi nên mang theo hai đội kiếm trận Mê linh để đối phó với võ sĩ của Ô Mã Nhi.

Tối hôm đó vương ngồi viết biểu, tấu trình chi tiết từ sau khi tái chiếm Thành đô; sai chim ưng mang về Đại Việt.

Trong khi Vũ Uy vương ban lệnh cho chư tướng, thì tại hành doanh của Mông cổ cuộc hội tham mưu chuẩn bị cho ba ngày đại chiến cũng chấm dứt. Mông Ca trở về ngôi soái lều của mình. Lều của Mông Ca bằng da lạc đà lớn như một dinh thự. Cách xa lều của y khoảng 100 trượng (200m) bốn bên là những dẫy lều của bốn bách phu Cấm vệ. Cấm vệ là những kị binh thiện chiến, trung thành, được tuyển chọn trong các con em thân vương, tướng lĩnh. Bốn bách phu do bốn tướng trung thành, võ công cao chỉ huy. Một là A Mít Lỗ Tề, người Tây vực, theo Mông Ca từ nhỏ, lĩnh chức Hùng uy tướng quân. Hai là Đi Mi Trinh, lĩnh Hổ uy tướng quân, người Nga la tư, là em của hoàng hậu Hốt Đô Đài. Ba là Kim Đại Hòa, lĩnh Ưng phi tướng quân, người Cao ly do chính Mông Ca tuyển chọn. Bốn là Đại Hành, lĩnh Phi mã tướng quân, do chính Mông Ca tuyển chọn, là người Việt, người thân tín của đệ nhất sủng phi Thanh Liên. Mới đây hoàng đệ Hốt Tất Liệt lại gửi thêm một bách phu nữa, gồm toàn các tay võ lâm cao thủ người Hán, do đại tướng vô địch Ô Mã Nhi chỉ huy.

Mông Ca gọi 5 tướng vào lều, ban cho rượu uống, Tuyên phi Thanh Liên sai cung nữ làm nem cho họ ăn (chả giò). Mông Ca ban chỉ:

– Cuộc ra quân ngày mai sẽ cực kỳ khốc liệt. Năm người hộ tống ta cũng nên biết qua. Trước hết ta cho Mục Tương Ca dùng 2 vạn phu kị binh, 3 vạn phu bộ binh công thành Điếu ngư. Ta lại cho Xích Nhân Thiết Mộc Nhi đem bốn vạn phu kị binh đánh Bồ lăng. Hạ xong Bồ lăng sẽ đánh Giang an.

Y nói chậm cho 5 tướng nghe:

–Trước tiên Mục Tương Ca cho kị binh đánh Điếu ngư đi trước tới gần thành dàn ra bao vây, dùng cung tên bắn vào quân thủ thành. Sau đó bộ binh dùng xe bắn đá, xe chở chất nổ phá thành. Đúng lúc đó thì Xích Nhân Thiết Mộc Nhi đem 4 vạn kị binh đánh Bồ lăng, Giang an lên đường. Trong vòng 2 giờ nếu như thành Điếu ngư vỡ thì chúng ta vào thành, rồi đi Bồ lăng. Còn như đến giờ Thìn mà không vào được Điếu ngư thì chúng ta đi Bồ lăng điều động tướng sĩ quyết chiếm kho lương này.

Mông Ca quyết định:

– Đội hình ngày mai như sau: mở đường là Ô Mã Nhi. Đi trước là Kim Đại Hòa. Bên phải là A Mít Lỗ Tề. Bên trái là Đi Mi Trinh. Phía sau là Đại Hành. Tại mỗi bách phu có một Cấm vệ mặc y phục như ta để đánh lừa giặc.

Ô Mã Nhi tâu:

– Khi thần lên đường thì Tể tướng hành Trung thư tỉnh A Lý Hải Nha dặn rằng: Bọn Tống dùng binh pháp Tôn tử, hư hư, thực thực khó lường. Khi ta đem quân đi đâu thì phía sau 5 dặm, 10 dặm, 15 dặm nên duy trì một Thập phu. Khi thấy tiền quân bị trúng phục binh thì chạy về báo. Ta sẽ dùng Thiết đột tiếp viện.

– Được! Cẩn thận như vậy là phải!

Mông Ca trở về lều hành cung. Cửa lều mở ra, viên Đại Hãn khét tiếng đứng dừng lại, mở to mắt ra nhìn: Tuyên phi Thanh Liên trang điểm cực kỳ diễm lệ: áo cánh lụa trắng. Khăn quàng cổ mầu hồng nhạt. Áo ngoài mầu tím, váy mầu đen. Dây lưng mầu hồng, xanh. Từ khi được Hốt Tất Liệt cống Thanh Liên cho, Mông Ca từng được nàng tiếp khi mặc bộ y phục Đại Việt này nhiều lần. Mỗi lần như vậy, khiến cho đại đế như người say ruợu. Hôm nay, sau buổi hội quân mệt mỏi, y lại được thấy Tuyên phi mặc bộ y phục mà y thích nhất.


Khởi Nguyên Mobile

Hồi (1-61)


<