← Hồi 180 | Hồi 182 → |
Một bài Thiên văn tự, khiến mùa đông lạnh lẽo của Lâu Thương thêm một nét vẽ tươi sáng.
Chỉ quang cảnh của nửa ngày, thiên địa huyền hoàng, tiếng ca vũ trụ hoang vu, liền xuất hiện phố lớn ngõ ngỏ ở trấn Lâu Thương. Những đứa trẻ vo ưu vô lo, không hề hiểu được những áng văn chương này rốt cục có chỗ nào cảm động lòng người, nhưng đọc thuộc làu làu, hơn nữa lời lẽ hoa mỹ, hát lên rất thú vị.
Lâu Thương thuộc về đất Sở, những dân ca truyền lại, đa số đều lấy Sở Từ làm chủ, trong đó lấy “Ly tao”, “cửu ca”, “thiên vấn” của Khuất Nguyên làm chủ. Sở Từ do dân ca nước Sở biến đổi thành, có chứa đặc sắc vô cùng sâu nặng của địa phương, ngày xưa xưng là Nam Phong, Nam Âm.
Đất Sở thịnh hành Vu Phong, người Sở lấy ca vũ để làm vui lòng thần linh, khiến cho rất nhiều thần thoại được bảo tồn.
Điều này cũng khiến cho trong Sở Từ, đầy ắp màu sắc tôn giáo, kết hợp với âm nhạc và âm điệu đặc biệt của nước Sở, tràn ngập tình lãng mạn.
Thiên Tự Văn và Sở Từ hoàn toàn không giống nhau.
Trong lịch sự vốn có, sự xuất hiện của Thiên Tự Văn, là trải qua sự hun đúc sau khi học thuật Nho gia độc tôn, bãi miễn Hán văn của hàng trăm gia đình, cộng thêm văn hóa nam bắc dung hợp thời kỳ Ngũ Hồ Loạn Hoa, từ đó sinh ra một loại văn chương hoàn toàn khác với thời đại đó. Kế thừa cơ sở của văn hóa Sở, lại dung hợp học thuật Nho gia và sự hào hùng của dân tộc du mục phương bắc, khiến cho Thiên Tự Văn toát ra vẻ đoan trang.
Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang...
Lúc Lưu Khám đọc thuộc Thiên Tự Văn, lại nghĩ đến vấn đề niên kỷ của Lưu Tần, vì thế mà dùng một chút cách thức âm nhạc của hậu thế, khiến cho nó càng đại chúng dễ hiểu, có thể nhanh chóng học được cách truyền xướng. Đến bản thân Lưu Khám cũng không ngờ được, sẽ xuất hiện kết quả như thế này.
Thế cho nên lúc bọn người Trần Bình nghe xong, đều vỗ án tán dương.
Còn Lưu Tần, trong vòng một ngày, có thể đọc thuộc làu làu Thiên Tự Văn đó. Thậm chí đến Vương Tín không thích đọc sách, cũng có thể đề vài ba câu lên trúc một cách dễ dàng, câu Bạch Câu Thực Trường thật sự khiến cho Vương Cơ vô cùng vui vẻ, nụ cười trên mặt càng thêm rạng rỡ.
Đồng thời, thông qua cách truyền đạt bằng miệng và tai, nội dung của Thiên Tự Văn cũng dần dần có khuynh hướng lan rộng về bốn phía Lâu Thương...
Lưu Khám thật sự không ngờ được, “Thiên Tự Văn” đối với thời đại này lại có thể sinh ra kết quả như thế nào. Hắn chẳng qua chỉ viết một bức thư tín, phái người gửi đến Lạc Dương, khẩn cầu Thúc Tôn Thông viết “Bác học thiên” và “Thiên Tự Văn” cho hắn. Sau này để chuyện này vào trong đầu, bởi vì, đối với Lưu Khám mà nói, còn có chuyện quan trọng hơn, đó chính là tổ chức hôn sự của Lưu Cự và Vương Cơ.
Khám phu nhân và Tương Cường sau khi thương lượng một hồi, định ngày hôn sự của Lưu Cự và Vương Cơ vào ngày đại hàn.
Đại hàn, một tiết khí cuối cùng trong hai mươi tư tiết khí.
Tam Cửu vừa qua, đến Tứ Cửu. Chính là thời tiết lạnh giá nhất trong một năm. Đại hàn qua đi, chính là lập xuân, vạn vật hồi sinh.
Dựa theo quẻ tượng, lại hợp với cách nói khổ tận cam lai.
Bất luận là Lưu Cự, hay là Vương Cơ, đều có thể coi như đã trải qua lận đận, nếm qua rất nhiều gian khổ, chịu rất nhiều sự trừng phạt, đều là người khổ.
Bây giờ, ngày tươi đẹp đã đến, không phải chính là khổ tận cam lai hay sao?
Đối với quyết định của Khám phu nhân, Lưu Khám không có ý kiến gì, dù sao là tốt hay là xấu, đều là nói như vậy.
Hôn sự thời Tần, không hề phức tạp rườm rà giống như thời Nho học thịnh hành, cũng không vô lý buồn cười như thời hậu thế.
Sau khi Lưu Khám tuyên bố với mọi người về hôn sự của Lưu Cự, tất cả mọi người đều lộ vẻ ngạc nhiên.
Nói cho cùng, Lưu Cự ít giao du với bên ngoài, rất ít khi lộ diện. Còn đối với việc rất nhiều người biết Lưu Khám có một người huynh đệ, nhưng rất ít người từng gặp. Những người dân bản xứ ở Lâu Thương còn tốt một chút, ban đầu lúc Lưu Cự đánh chết Đinh Khí, từng lộ diện một lần. Nhưng có nhiều người thậm chí đến tên của Lưu Cự còn không biết rõ. Người từ bên ngoài đến Lâu Thương sinh sống, có người thậm chí còn không biết, Lưu Khám còn có một người huynh đệ như vậy.
Thời gian trôi qua thật nhanh, ngày đại hôn của Lưu Cự cũng sắp đến.
Vương Cơ đã chuyển đến Lưu phủ, tạm thời sống trong một thôn trang khác của Trần gia. Khám phu nhân Lữ Tu cả ngày bận rộn không ngừng, còn Lưu Cự, lại cả ngày cười nhe răng, gặp người nào cũng đều cười ngây ngô.
Lưu Cự đã qua tuổi ba mươi.
Thế nhưng sức khỏe vẫn giữ ở trạng thái đỉnh cao nhất.
Sức lực càng ngày càng khiến người ta kinh sợ, võ nghệ cũng càng ngày càng tinh thông.
Y vốn dĩ vô cùng thuần phác, tu luyện quyền pháp. Song song với việc rèn luyện khí lực, dưới sự hướng dẫn của Lưu Khám, y còn học thái cực quyền.
Mấy năm tu luyện, đặc biệt là sau khi An Kỳ giúp y xóa bỏ vết tích xiềng xích khóa nô, cả con người Lưu Cự đều biến đổi.
Những binh khí thông thường đã không thể nào sử dụng.
Lưu Khám từ Bình Dương trở về, sau khi suy nghĩ rất lâu, đã đã thiết kế ra một loại binh khí phù hợp với Lưu Cự.
Lang nha bổng!
Lưu Cự sức lực hơn người, đi đứng cũng dũng mãnh kiên cường, lấy lực trị địch. Vốn dĩ Lưu Khám nghĩ rằng, tạo ra hai thanh đại chùy cho Lưu Cự là được, nhưng sau này mới phát hiện, chiếc chùy này không dễ luyện. Thời Tần, vẫn chưa có phương pháp luyện chùy một cách hệ thống, tuổi tác của Lưu Cự, cũng không thích hợp luyện tập từ đầu. Vì vậy Lưu Khám dứt khoát mời Bàn Dã Lão trong trong lúc rèn sắt, lấy sắt tinh được thu từ vàng nặng, chọn dùng phương pháp luyện thép mới nghiên cứu ra của Bàn Dã Lão, tốn thời gian ba mươi ngày, chế tạo ra lang nha bổng khổng lồ nặng đến chín mươi cân.
Dài chừng một trượng hai thước, thân gậy còn to hơn cả cánh tay của trẻ nhỏ.
Đầu gậy hình bầu dục, bên trên còn có một trăm lẻ tám cái gai sắt, khiến người ta kinh ngạc.
Lang nha bổng nặng trình trịch này, đến Lưu Khám cũng cảm thấy nặng tay. Nhưng trong tay của Lưu Cự, lại như một cây bấc đèn, chỉ một cánh tay là có thể xoay dễ dàng.
Lưu Cự yêu thích binh khí này vô cùng, không muốn rời tay.
Cả ngày y cầm lang nha bổng đấu võ với mọi người ở khắp nơi trong binh doanh.
Chung Ly Muội, Quán Anh, không đấu nổi hai mươi hiệp với Lưu Cự. Nếu như nói trong trấn Lâu Thương này, có người có thể đấu với Lưu Cự, duy chỉ có hai người. Lưu Khám đương nhiên coi như là một, nhưng chỉ dựa vào sức mạnh không thôi cũng không phải là đối thủ của Lưu Cự.
Mỗi lần giao đấu với Lưu Cự, chỉ có thể dựa vào kĩ xảo để giành thắng lợi. Nhưng quá trình trong đó huyền diệu khó giải thích, không thể phân rõ ai thắng ai thua.
Còn có một người có thể giao đấu với Lưu Cự, đó là Vương Tín... Ồ, sau đại hôn của Lưu Cự, Vương Tín cũng nên đổi tên thành Lưu Tín rồi.
Lưu Tín vừa qua tuổi mười sáu, thân cao đã gần chín thước.
Thấp hơn Lưu Cự một cái đầu, lúc hai người đứng cùng với nhau, khiến Lưu Khám không nhịn được nói: hai cái người này, thật là giống bố con.
Lưu Tín đi lại cũng dũng mãnh kiên cường, binh khí cậu sử dụng cũng là lang nha bổng.
Nhưng so với lang nha bổng của Lưu Cự, binh khí của Lưu Tín rõ ràng là nhỏ hơn một số, nặng năm mươi cân. Hai người này đấu võ, liền nghe thấy tiếng binh khí va vào nhau “keng keng”, tiếng hô không ngừng, tiếng vang lớn liên tục, khiến cho người ngoài nhìn vào đều cảm thấy hãi hùng.
Dưới tay Lưu Cự, đi qua năm mươi chiêu vẫn chưa bại.
Bây giờ, trong binh doanh của Lâu Thương, có cách nói Tam hùng Lưu Thị.
Lại có người trêu đùa: Tam hùng Lưu Thị, con gấu Cự là nhất. Nói cách khác, trong mắt tất cả mọi người, lực sát thương của Lưu Cự đứng thứ nhất.
Đương nhiên rồi, con người không ai là hoàn mỹ.
Lưu Cự cũng có một thiếu sót rất lớn, đó chính là không giỏi mã chiến. Tuy nhiên Lưu Cự cũng không để tâm, không giỏi mã chiến, nhưng ta bộ chiến đứng thứ nhất.
Ha ha, như thế là đủ rồi! Còn cách ngày đại hôn năm ngày nữa, trước cửa Lưu phủ Lâu Thương đã giăng đèn kết hoa.
Lưu Khám dẫn theo hai người Hàn Tín và Tư Mã Hỉ vừa sáng sớm đã rời khỏi phủ đệ, kiểm tra xem xét quân doanh. Căn cứ vào pháp lệnh Đại Tần, danh nghĩa Đô Úy Tứ Thủy của Lưu Khám sẽ quản lí một doanh trại binh mã. Chỉ là, Lão Bi doanh và quân đội phổ thông lại không hoàn toàn tương đồng. Dựa vào quy tắc của quân đội Tần triều, Lão Bi doanh thuộc về Biệt bộ trung quân. Biệt bộ này khiến cho Lão Bi doanh và các quân đội khác có bản chất không giống nhau.
Một doanh trại bình thường nếu đủ quân số là hai nghìn năm trăm người.
Mà thủ quân địa phương cũng khoảng hai nghìn người.
Nhưng Lão Bi doanh hôm này có bốn nghìn binh mã, trong đó kỵ quân tám trăm, xa binh một đội, bộ binh khoảng hai nghìn năm trăm người.
Binh lực như vậy, theo lý mà nói đã đầy đủ. Nhưng do phạm vi cai quản của Đô Úy Tứ Thủy Lưu Khám bao phủ cả vùng Tứ Hồng. Vì vậy trong hai năm trước, Lâu Thương một mặt phát triển quân số, mặt khác không ngừng mở rộng binh doanh.
Bây giờ, toàn bộ vùng Tứ Hồng tổng cộng có bốn khu binh doanh.
Trừ đại bản doanh Lâu Thương ra, còn xây dựng thêm Cai Hạ doanh, Đại Trạch Hương doanh cùng với Thủ Lự doanh ở chỗ tiếp giáp giữa sông Đường và Tuy Thủy.
Ba khu binh doanh Cai Hạ, mỗi binh doanh đóng tám trăm binh mã, cùng tấn công hai nghìn bốn trăm người. Trong đại bản doanh Lâu Thương có một nghìn sáu trăm người.
So sánh một chút, một nghìn sáu trăm người trong đại bản doanh Lâu Thương là tinh nhuệ của Lão Bi doanh.
Kỵ binh có năm trăm, xa binh mười thặng (đơn vị cũ, bốn cái gọi là một thặng), bộ quân nghìn người. Trong đó một bộ phận là những lão tốt trước kia đã theo Lưu Khám chinh chiến, toàn bộ còn lại đều là những trang đinh được điều động ra từ trong điền trang của Lưu gia. Những người này, chỉ phục tùng một mình Lưu Khám, lần lượt do Chung Ly Muội, Quán Anh và Lữ Thích Chi chỉ huy.
Ngoài ra, trong điền trang Lưu gia còn có bốn trăm tư binh, toàn bộ đều là thân vệ của Lưu Khám, do Lưu Khám trực tiếp chỉ huy.
Việc xây dựng binh doanh, tất cả đều bình thường.
Lúc Lưu Khám tuần sát binh doanh, đặc biệt quan sát Hàn Tín đi bên cạnh. Hàn Tín mười sáu tuổi, giương to mắt, dường như đối với tất cả mọi việc trong binh doanh đều cảm thấy hiếu kỳ, thỉnh thoảng mở miệng, những vấn đề mà y hỏi, cũng rất có tính xây dựng.
Tên tiểu tử này, có lẽ đúng là sinh ra vì chiến trận.
Lưu Khám nghĩ tới đây, trong lòng không khỏi thêm một phần mong đợi. Nếu như thiên hạ thật sự biến động, thì tên tiểu tử này đủ để đảm nhiệm một mình một phía cho ta.
Buổi trưa, Lưu Khám dùng bữa trưa trong binh doanh.
Tập quán ở thời Tần, mỗi ngày chỉ có hai bữa, buổi trưa một bữa và chiều tối một bữa.
Những bách tính bình thường trong Lâu Thương, đa số đều duy trì tập quán này. Nhưng trong binh doanh, do yêu cầu của Lưu Khám đối với việc tập luyện hết sức nghiêm ngặt, cho nên bữa cơm biến thành ba bữa. Như vậy có thể khiến cho các binh sĩ tràn đầy thể lực, còn có thể hoàn thành việc huấn luyện gian khổ mỗi ngày.
Đồng thời, đây cũng là nguyên nhân Lão Bi Doanh có thể nhanh chóng đủ quân số.
Thị sát xong quân doanh, Lưu Khám cùng với Quán Anh, Chung Ly muội nói chuyện riêng một lát, sau đó lên ngựa quay về thành. Thời tiết mặc dù còn rất lạnh, nhưng những cây dương liễu ven hồ đã bắt đầu thấp thoáng màu xanh. Mùa xuân ở Lâu Thương đến sớm hơn một chút so với phía bắc. Trên bờ sông có một con vịt đang nghịch nước vui vẻ, khiến cho người ta có thể cảm nhận được bước chân đang đến gần của mùa xuân.
*****
“Trúc ngoại đào hoa tam lưỡng chi, xuân giang thủy noãn áp tiên tri... ”
- Hỉ tử, ngươi đang ghi chép cái gì vậy?
Lưu Khám trên lưng ngựa quay người lại, phát hiện thấy Tư Mã Hỉ rút ra một tấm bảng gỗ có lót giấy trắng từ trong túi trên lưng ngựa, sau đó lại lấy ra một chiếc bút than chì, đang viết rất nhanh cái gì đó trên giấy trắng.
Nghe thấy Lưu Khám hỏi, Tư Mã Hỉ ngẩng đầu:
- Những câu thơ vừa nãy của chủ nhân, có chút không hợp vần luật, vậy nên có cảm thụ khác... Cổ Tá Sử ngày trước nói, ta phải chú ý hơn đến văn chương của chủ nhân. Y vô cùng thích Thiên Tự Văn mà chủ nhân làm, do đó bảo ta phải ghi chép bất cứ lúc nào.
Chủ nhân, câu thơ vừa nãy của người, hình như vẫn còn phía sau nữa, sao không đọc tiếp?
Tên tiểu tử này đúng là có dáng dấp của một quan thư ký.
Tư Mã Hỉ trước kia theo học Trương Thương, sau đó lại theo Trình Mạc, có thể nói là một tú tài trong số những người trẻ tuổi ở Lâu Thương.
Lưu Khám cười nói:
- Cái này không phải là thơ ta làm, chỉ là thấy cảnh sắc trước mắt, có cảm xúc nên buột miệng thôi...
- Thế đó là thơ của ai...
- Cái này...
Lưu Khám nhất thời không biết trả lời như thế nào. Nói cho cùng, thì người làm bài thơ này, là đại văn hào Tô Thức Tô Đông Pha của một nghìn năm sau.
Nhưng ngươi nói Tô Đông Pha với Tư Mã Hỉ, làm sao mà cậu ta biết được?
“Lâu khao mãn địa lô nha đoản.
Chính thị hà đồn dục thượng thời!”
Lưu Khám đọc nốt hai câu thơ sau xong, không để ý đến Tư Mã Hỉ nữa, quay đầu nói với Hàn Tín:
- Tín, nhìn cảnh sắc tràn ngập trước mắt, có thể thấy xuân đã đến rồi... Thế nào, hơn một năm này có thu hoạch và tâm đắc gì không?
Hàn Tín đang chực mở miệng thì đột nhiên phía xa xa có tiếng vó ngựa dồn dập.
Đưa mắt nhìn ra xa, chỉ thấy từ hướng trấn Lâu Thương, mấy con ngựa phi nước đại, trong chớp mắt đã đến trước mặt Lưu Khám.
Ngồi trên lưng ngựa chạy đến trước tiên chính là Tiết Âu.
Y ghì chiến mã, quay người nhảy xuống ngựa, quỳ một gối, nói:
- Đô Úy, trong phủ có khách tới thăm. Phu nhân lệnh cho tiểu nhân đến đây, mời Đô Úy về phủ.
- Trong phủ có khách? Người nào?
Tiết Âu lắc đầu nói:
- Tiểu nhân không biết... Nhưng Tào Chủ Bộ hình như nhận ra người đó. Hai người một nam một nữ, nam khoảng chừng ba bốn mươi tuổi, nữ khoảng chừng bảy tám tuổi.
Lại còn là một già một trẻ?
Lưu Khám không khỏi cảm thấy nghi hoặc, thật sự nghĩ không ra, bọn họ là người nào.
Đoạn thúc ngựa Xích Thố:
- Hàn Tín, Tư Mã Hỉ, hai người các ngươi theo Tiết Âu về phủ. Ta đi trước một chút, trên đường đừng gây phiền phức.
Dứt lời, đánh ngựa quất roi, phi nhanh về.
- Tiết đại ca, rốt cuộc là ai tới, lại khiến phu nhân vội vàng tìm Đô Úy về như vậy?
Tiết Âu nhún vai:
- Ta cũng không biết, nhưng nghe giọng giống như là người địa phương, hình như là từ huyện Bái tới... Tín, chúng ta về sớm một chút đi.
Hàn Tín gật đầu, đợi Tiết Âu lên ngựa, hai người sánh vai nhau mà đi.
Tư Mã Hỉ lại nhớ kĩ câu thơ vừa nãy của Lưu Khám, ở chỗ lạc khoản (phần đề chữ, ghi tên trên bức vẽ) viết tên của Lưu Khám.
- Tín, chờ ta một chút!
Cậu thu lại bảng bút, thúc ngựa đuổi theo. Một đoàn người phi như bay về phía Lâu Thương.
Lưu Khám về đến Lâu Thương, xuống ngựa bên ngoài cửa phủ.
Còn chưa kịp đi lên bậc thang, đã nhìn thấy Chu Xương vội vàng chạy đến.
Vốn dĩ Chu Xương thu dọn xong hành lí, chuẩn bị xuất phát về Giang Dương với Khổ Hành giả. Nhưng do hôn sự của Lưu Cự, thế nên tạm thời lưu lại, chuẩn bị đợi uống xong rượu mừng của Lưu Cự sẽ đi Giang Dương.
Chỉ thấy y vội vội vàng vàng.
Y chắp tay hành lễ trước mặt Lưu Khám, sau đó không đợi Lưu Khám nói gì, y lắp bắp nói:
- Đô Úy, nghe nói... Lão Tiêu tới rồi?
- Lão Tiêu?
Lưu Khám và Chu Xương sóng vai nhau đi vào trong phủ, nghi hoặc hỏi.
- Chính là Tiêu tiên sinh, Tiêu Hà đó.
- Tiêu Hà?
Nghe thấy tên này, Lưu Khám không khỏi ngẩn người. Hắn dừng bước, ngạc nhiên nói:
- Không phải y đang là quan nhỏ ở huyện Bái hay sao, sao lại chạy tới đây làm gì?
Cũng khó trách Lưu Khám lại ngạc nhiên như vậy.
Tính toán tỉ mỉ, hắn và Tiêu Hà đã rất nhiều năm không gặp rồi.
Lúc Lưu Khám nhận chức Lâu Thương lệnh, trong đó có mấy lần muốn tìm Tiêu Hà nhờ cậy, nhưng Tiêu Hà đều tìm cớ trốn tránh.
Thời gian lâu, sự kì vọng của Lưu Khám vào Tiêu Hà dường như cũng không còn mãnh liệt như trước nữa, cho nên cũng giảm bớt rất nhiều.
Chỉ chẳng qua, hắn nghĩ không ra Tiêu Hà sao lại đến tìm hắn.
Trước đây, người này luôn tránh càng xa càng tốt, sao lần này lại chủ động đến tìm hắn? Chu Xương cũng không biết tình hình cụ thể, nếu không có Tào Tham phái người đến thông báo, y thậm chí còn không biết Tiêu Hà đến. Đi theo sau Lưu Khám, hai người đi thẳng tới phòng khách. Không đợi đi vào trong phòng, đã nghe thấy bên trong vọng lại tiếng khóc thút thít. Lưu Khám ngẩn người! Tiếng khóc này, lại xuất phát từ Lữ Tu.
Rảo bước nhanh vào trong phòng khách.
Chỉ thấy trong đại sảnh đã có không ít người đến.
Phu thê Lữ Văn, còn có Lữ Thích Chi đang an ủi Lữ Tu, Tào Tham Khoái Triệt, lại đang chau mày đứng bên cạnh, không nói lời nào.
Trên ghế khách, Tiêu Hà đã đứng dậy.
Nhiều năm không gặp, vị Tiêu Hà tiên sinh này nhìn có vẻ già hơn một chút so với trước kia, trên đầu đã có tóc bạc, khí chất càng trầm ổn hơn.
Bên cạnh Tiêu Hà có một đứa con gái mặc áo bố màu xanh.
Nhìn dáng vẻ khoảng bảy tám tuổi, cao hơn sáu thước, so với những đứa bé gái khác, phải cao hơn nửa cái đầu.
Trên mặt bé gái nước mắt còn chưa khô, tay cầm một miếng bánh gạo nếp, núp nửa người phía sau Tiêu Hà, rụt rè nhìn Lưu Khám.
- A Khám, tỷ tỷ, tỷ tỷ... đã xảy ra chuyện!
Lữ Tu nhìn thấy Lưu Khám đi vào, giống như ngay lập tức tìm thấy người tâm phúc, vừa khóc vừa chạy đến, rúc đầu vào trong lòng Lưu Khám.
Lưu Khám không phản ứng lại, nghi hoặc hỏi:
- Ai xảy ra chuyện?
- Tỷ phu, là đại tỷ xảy ra chuyện.
Lữ Thích Chi nhìn thấy Lữ Tu khóc không thành tiếng, tiến lên một bước nói:
- Tiêu tiên sinh đến báo tin, ba ngày trước, đại tỷ bị quan phủ bắt đi rồi.
- A Trĩ?
Lưu Khám đã hiểu ra một chút, bất giác ôm chặt lấy Lữ Tu, nhìn về phía Tiêu Hà.
- Tiêu Hà tham kiến Đô Úy!
Tiêu Hà vội vàng lên phía trước hành lễ. Trước khác nay khác, Lưu Khám bây giờ không còn như ngày trước, đường đường là Đô Úy Tứ Thủy, đại quan hai nghìn thạch, dân tước mười hai cấp, cứ coi như là Lí Phóng đến đây, cũng phải ngoan ngoãn hành lễ. Huống chi là Tiêu Hà chỉ là quan chức của Bái huyện.
- Rốt cục là xảy ra chuyện gì? Quan phủ sao lại bắt A Trĩ?
Lưu Khám trầm giọng hỏi, ánh mắt sáng quắc, nghi ngờ nhìn Tiêu Hà.
Tiêu Hà nói:
- Đô Úy, tình hình là như thế này. Mấy ngày trước, Lý huyện lệnh đến huyện Thích huyện nói là lúc ba quận mưu phản, con trai của Lưu Quý laf Lưu Phì, có quan hệ mật thiết với tên cầm đầu phản tặc huyện Thích – Khổng Hi, đồng thời lúc ba quận rối loạn cũng có tham dự trong đó.
Đô Úy, ngươi cũng biết chuyện này liên lụy sâu rộng, hơn nữa bây giờ có Thượng Khanh Mông Nghị đại nhân trấn giữ Bình Dương, đốc thúc việc này.
Vì vậy, huyện lệnh cho người truy nã toàn bộ nhà Lưu Quý. A Trĩ thân là thê thất của Lưu Quý, đương nhiên không thể tránh khỏi, cũng bị bắt đi.
Vừa nói chuyện, Tiêu Hà kéo đứa bé gái ra.
- Hôm xảy ra chuyện, nó đang không có nhà, ở cùng nhà với cậu, chơi đùa ở nhà Đồ Tử. Cậu nó vừa nghe thấy chuyện này, lập tức đem nha đầu này đến chỗ ta, còn bản thân thì lén lút trốn đi. Trước lúc xảy ra chuyện, A Trĩ từng nói với ta, một khi trong nhà xảy ra chuyện, thì để ta A Nguyên gửi tới nơi này...
Lữ Văn cũng chạy tới:
- A Khám, cầu xin con hãy cứu A Trĩ. A Trĩ mệnh khổ, lại gặp một người đàn ông thế này... Đáng thương bây giờ A Trĩ đang có thai, bị bắt vào ngục làm sao mà chịu nổi? A Khám, con cũng là mệnh quan triều đình, nhất định có cách, có phải không?
Hai gò má Lưu Khám giật giật, lông mày chau lại.
Lúc này, Tiêu Hà khẽ kéo Lưu Nguyên.
Tiểu nha đầu nhanh trí bước lên trên, kéo lấy tay áo của Lưu Khám, nước mắt lưng tròng nói:
- Dượng, cứu mẫu thân của con...
Không biết vì sao, Lưu Khám nhìn thấy nha đầu này, chỉ cảm thấy trong lòng rung động.
Cũng không thể nói ra là nguyên nhân gì, tự nhiên cảm thấy vô cùng thân thiết. Hắn buông Lữ ra, ngồi xổm xuống, ôm Lưu Nguyên lên, nhẹ nhàng vuốt mái tóc đen nhánh của nó.
Chuyện này, đúng là không hề dễ!
Liên quan đến mưu phản, nhẹ nhất cũng là tội danh chu di tam tộc.
- Lưu Quý đâu? Bây giờ ở đâu?
Tiêu Hà nói:
- Theo hành trình thì bây giờ chắc y đang trên đường về nhà. Huyện lệnh đã phái người ra ngoài, chuẩn bị truy bắt Lưu Quý trên đường. Nhưng bây giờ vẫn chưa có tin tức gì... Đô Úy, sự tình đại thể là như thế, ta cũng biết chuyện Lưu Quý lần này thực sự không nhỏ, muốn giải vây cho y, quả thật rất khó. Đứa trẻ này cứ gửi lại ở chỗ ngươi, ta còn phải về nhà ngay, xem xem có tìm ra cách gì không.
Việc này không được chậm trễ, ta xin cáo từ!
- Lưu Khám!
Lữ Tu nhìn Lưu Khám với ánh mắt khẩn cầu, kéo cánh tay của y.
- Tiêu tiên sinh!
Lưu Khám gọi Tiêu Hà lại, hắn trầm ngâm một lát.
- Việc này phải bàn bạc kĩ hơn. Ngươi cứ nghỉ ngơi ở đây đã, đợi ta nghĩ cách... Trời cũng không còn sớm nữa, thế này đi, sáng sớm mai ngươi theo ta đến huyện Bái... Thích Chi, đệ dẫn Tiêu tiên sinh đi nghỉ ngơi trước đã, phụ thân mẫu thân cũng không nên gấp gáp, con tự cho cách giải thoát cho tỷ tỷ. A, ngươi dẫn Nguyên Nhi đi rửa mặt, thay quần áo, cho nó ăn chút gì rồi ngủ một giấc. Ta nghĩ, Nguyên nhi mấy ngày nay cũng vô cùng sợ hãi... Mọi người đừng lo lắng, đi làm việc của mình đi!
Dám người Lữ Tu cũng biết, xảy ra chuyện thế này, không thể chốc lát mà giải quyết được.
Vì vậy, theo sự dặn dò của Lưu Khám, mọi người tự tản ra.
Tiêu Hà ở lại, Lưu Khám dẫn y và Tào Tham, Khoái Triệt vào trong thư phòng, phân chủ khách ngồi xuống.
Lưu Khám hỏi:
- Tiêu tiên sinh, Lưu Phì đó mới có mấy tuổi, đang yên đang lành sao tự nhiên lại giao du với phản tặc... Còn nữa, huyện Bái đến Thích huyện, đường đi cũng không xa, Lưu Phì sao có thể chạy tới huyện Thích, sau đó lại dây dưa với bọn người kia được?
- Chuyện này...
Tiêu Hà thở dài, lắc đầu cười gượng.
- Đô Úy, ngươi không phải không biết đạo đức của Lưu Quý? Hai năm nay tuy rằng bớt phóng túng một chút, nhưng mà... Lưu Phì đã con của Lưu Quý lúc còn trẻ với Tào Thị. Sau khi Tào Thị chết, Lưu Quý không hỏi han gì đến Lưu Phì, dần dần tính cách nó trở nên hoang dã, có chút học theo bộ dạng của bố nó.
Lưu Quý không quan tâm đến con cái, kết quả Lưu Phì cả ngày chơi bời lêu lổng ở huyện Bái, kết bạn với mấy tên không ra gì.
Sau đó lại đánh bạc, thua lỗ một khoản rất lớn. Mấy tháng trước, nó đột nhiên biến mất, sau đó nghe người ta nói, thường hay lui tới ở huyện Thích. Năm ngoái trước khi Lưu Quý áp giải phạm nhân đến Li Sơn, ta cũng đã nhắc nhở riêng Lưu Quý... Không ngờ, vẫn xảy ra chuyện này...
Tiêu Hà đem hết những chuyện mà y biết kể cho Lưu Khám.
Lưu Khám sau khi nghe xong, vùng quanh lông mày chau lại.
Hồi lâu, hắn đứng dậy bảo Tào Tham và Tiêu Hà đi nghỉ ngơi, sau đó đi đi lại lại trong phòng, bỗng nhiên nói với Khoái Triệt:
- Lão Khoái, phiền ngươi tìm Đạo Tử đến đây... Cứ nói, ta có chuyện cần bàn bạc với y.
← Hồi 180 | Hồi 182 → |
< Xem thêm truyện hay, đặc sắc khác