Vay nóng Homecredit

Truyện:Hắc bạch hương hồ ký - Hồi 18

Hắc bạch hương hồ ký
Trọn bộ 19 hồi
Hồi 18: Chính Tâm Tái Đắc Thanh Xuân Tuế,-Đảo Mệnh, Hoàn Dương, Phu Phụ Hoan.
5.00
(3 lượt)


Hồi (1-19)

Siêu sale Lazada

Đầu trung tuần tháng hai, Tư Đồ Sảng bỗng nằm mộng thấy một lão nhân áo trắng, tóc bạc, râu dài. Dung mạo hao hao giống Bạch Phụng. Ông ta nghiêm nghị bảo:

- Này Tư Đồ hiền tế! Lão phu chính là Bạch Hòa, phụ thân của Bạch Phụng đây! Hồ Ly Đế Quân phản đối mối duyên ngang trái của hai ngươi nên đã bắt Bạch Phụng giam ở Trường Giới Động trên núi Đại Ba Sơn, thuộc rặng Tần Lệnh. Đế Quân không tin loài người có thể thực lòng yêu thương một ả Hồ Ly tinh! Song Phụng nhi đã hết lời biện bạch nên Đế Quân cho gọi hiền tế đến, hạn chót là ngày hai mươi tám tháng hai này! Đường đi sẽ đầy dẫy cạm bẫy và mai phục nhưng hiền tế chỉ được phép độc hành.

Bạch lão dừng lại lấy hơi rồi buồn rầu nói tiếp:

- Thú thực là Đế Quân có ý thu nạp Phụng nhi làm thứ Phi nên sẽ tận lực ngăn trở hiền tế bằng mọi thủ đoạn. Lão phu sợ rằng ngươi sẽ không vượt qua nổi mà còn uổng mạng! Và dẫu cho hiền tế có cứu được Phụng nhi ra khỏi Đại Ba Sơn thì hai người cũng chỉ suốt đời lén lút tương hội chứ không thành phu thê đường đường chính chính được! Hay là hiền tế đừng đi nữa và tiến hành việc Đảo Mệnh cho hai vị tiểu thư họ Lăng. Lão phu sẽ mở cửa Linh Hồ Động và chỉ dẫn phương thức hồi sinh!

Tư Đồ Sảng khẳng khái đáp:

- Bẩm nhạc phụ! Tiểu tế yêu thương Phụng muội bằng cả tấm chân tình, quyết chẳng vì sợ chết mà bỏ rơi nàng! Dầu sau này chỉ được sum họp trong bóng đêm thì tiểu tế cũng mãn nguyện rồi! Nếu chẳng may tiểu tế táng mạng thì cũng là số mệnh! Lúc ấy xin nhạc phụ giúp Trương Thiên Sư tiến hành việc Đảo Mệnh cho Phi Tuyết, Phi Hồng!

Bạch Hòa lộ vẻ hài lòng trước sự chung thủy của chàng rể quí! Ông mỉm cười dặn dò:

- Giữa giờ Ngọ ngày kia hiền tế hãy xuất hành và nhớ mang theo Giáng Ma Phủ!

Bạch lão biến mất và Tư Đồ Sảng cũng giật mình thức giấc! Chàng làm vệ sinh thật nhanh và tìm đến phòng của nghĩa phụ. Lúc này mới là đầu canh năm nhưng Tây Môn Giới đã dậy để uống trà với Trại Tôn Tử!

Từ ngày con nuôi trở về, lòng ông vui vẻ nên bỏ tật nhậu khuya, dễ dàng ngủ sớm và dậy sớm! Bọn Thất Tinh Hình Sứ thay phiên nhau gác phòng sư phụ, túc trực ngày đêm, lúc nào cũng có ít nhất là hai người! Họ cũng đã biết Tề Thanh Tuyệt là Thiếu Chủ của mình, kính cẩn chào hỏi và mời ông vào trong!

Thấy mặt nghĩa tử, ông hoan hỉ bảo:

- Sao sáng nay Sảng nhi đến tìm ta sớm như vậy? Mau ngồi xuống đây uống trà!

Và ông mỉm cười giễu cợt:

- Hay là ngươi nhớ vợ nên trằn trọc đến sáng? Tối nay lão phu sẽ cho mượn mật thất để ngươi và Hương nhi sử dụng? Lão phu chỉ sợ bụng nó phưỡn ra, khó mà giải thích với thiên hạ!

Tư Đồ Sảng đỏ mặt hổ thẹn vì quả thực là chàng cũng khó ngủ lúc đầu hôm vì khao khát ái ân! Một nam nhân đã quen với thân xác đàn bà thì ân ái trở thành một nhu cầu. Hơn nữa, Chiêu Hương là một vưu vật hiếm có, ngực nở eo thon, da dẻ mịn màng, trắng muốt, ánh mắt đầy tình tứ mê hoặc, khiến lòng quân tử đắm say, không sao quên được! Nàng biết mình lớn tuổi nên nỗ lực chăm chút nét đẹp cơ thể và hết lòng chiều chuộng trượng phu, đem lại cho Tư Đồ Sảng vô vàn hoan lạc!

Nhắc lại, Tư Đồ Sảng bị nghĩa phụ nhìn thấu tâm can nên thẹn thùng bối rối, ngồi xuống ghế bưng chén trà nhấp một hớp!

Tây Môn Giới khề khà nói:

- Sảng nhi! Ta và Hồ lão huynh đang tìm hiểu lai lịch của bọn người bịt mặt đã chặn bắt Trương Thiên Sư và Giả Đan Quỳnh, ở gần Y Xuyên, hồi đầu tháng giêng. Hồ lão huynh cho rằng đám lâu la là thủ hạ Hải Hoa Bang, còn mấy lão Hắc y sử dụng trường kiếm thì thuộc về Song Tuyệt Môn ở Phủ Du Lâm, miền Bắc Thiểm Tây!

Hồ Sĩ Tuệ đỡ lời bạn già:

- Song Tuyệt Môn tồn tại đã ba chục năm nay, Môn chủ là Hầu Diện Thư Sinh Dư Nam Nghiệp, năm nay độ chừng bẩy mươi lăm tuổi! Họ Dư giỏi kiếm thuật và nghề phóng kim thép, bản lãnh đứng đầu vùng Thiểm Bắc, đã từng xưng là Song Tuyệt Thần Quân. Khổ thay, người võ lâm lại không thèm nhớ đến danh hiệu đẹp đẽ ấy mà cứ gọi một cách giễu cợt là "Chàng học trò mặt khỉ!" Dư Nam Nghiệp phẫn chí xây nhà ở chân núi Nguyệt Sơn, cách Du Lâm mười lăm dặm về hướng Bắc và thu nạp đệ tử, thành lập Song Tuyệt Môn! Do dung mạo quá xấu xí nên Hầu Diện Thư Sinh bằng lòng với vai trò bá chủ Thiểm Bắc, không hề bước chân vào Trung Nguyên!

Tây Môn Giới tiếp lời:

- Lão phu đã xem xét kỹ mấy cây độc châm còn dính trên áo lông cừu của Sảng nhi, phát hiện dấu khắc nửa vầng trăng rất nhỏ. Đấy chính là Chiêu bài của núi Nguyệt Sơn! Và chất độc tẩm ở đầu mũi kim có lẽ là nọc của loài hải xà bụng vàng, tuyệt thế vô song, giết người trong chớp mắt và không có thuốc giải! Trong pho Độc Kinh của Bát Tý Độc Vương cũng chú thích rằng: Do chưa lần nào bắt được hải xà để nghiên cứu nên Hàn Cổ Mộc đành bó tay!

Ông lộ vẻ lo lắng bảo:

- Sảng nhi! Có lẽ Song Tuyệt Môn bị quân Mông Cổ mua chuộc và làm tay sai cho chúng, giống như Nam Hải Tiên Ông và Giáp Vô Yên lúc trước vậy! Ngươi là trụ cột của võ lâm, sớm muộn gì cũng phải đối đầu với Song Tuyệt Môn và chất độc kia khiến lão phu rất băn khoăn.

Tây Môn Giới tháo sợi tơ trên cổ, đặt Hắc ngọc xuống bàn và nghiêm nghị bảo:

- Sảng nhi hãy nuốt viên nội đan Mãng Xà tinh này để tăng hỏa hầu pho Khô Mộc Thần Công thì mới có thể toàn mạng trước độc châm của Hầu Diện Thư Sinh!

Tư Đồ Sảng đã trao báu vật cho nghĩa phụ sử dụng để tăng cường sức khỏe của ông! Võ công Tây Môn Giới không cao nên có thể bị lão hóa theo qui luật tự nhiên. Nhờ Hắc Ngọc mà mắt ông bớt mờ, tai nghe rõ hơn và phủ tạng cũng hoạt động tốt! Không chỉ mình Tây Môn Giới mà cả Trại Tôn Tử cũng được hưởng lợi ích này!

Nay, nếu Tư Đồ Sảng dung hoà Hắc ngọc thành công lực thì chỉ mình chàng đắc lợi còn người thân thì thiệt thòi. Do vậy, Tư Đồ Sảng quyết giữ lại để những người chàng yêu thương được khỏe mạnh và sống lâu.

Tư Đồ Sảng cố tỏ vẻ lạc quan, vui vẻ đáp:

- Nghĩa phụ yên tâm! Với hỏa hầu hiện tại hài nhi cũng đủ sức chống lại độc châm, bằng chứng là trận chạm trán cao thủ Song Tuyệt Môn hôm trước! Hơn nữa, diệu dụng báo trước nguy cơ của Hắc ngọc còn quí giá hơn mấy chục năm công lực!

Chàng lập luận rất hữu lý vì dẫu cho hỏa hầu có cao đến mức nào thì Khô Mộc Thần Công cũng chỉ phát huy tác dụng khi người võ sĩ vận khí! Nhưng không lẽ cả ngày chàng cứ phải làm việc ấy? Cho nên, khả năng cảm nhận được nguy hiểm là một lợi thế phi thường!

Tuy nhiên, cái đầu sắc xảo của Tây Môn Giới đã không bị lừa. Ông cảm động nói:

- Chứ không phải là ngươi sợ lão phu chết sớm đấy sao? Thôi được, xét ra, Sảng nhi cũng có lý!

Hồ Sĩ Tuệ cười khà khà:

- Tây Môn lão đệ phúc phận sâu dầy nên cuối đời có được đại hiếu tử! Lão phu làm bạn ông mà được hưởng lộc không còn sợ phải chết trong cảnh bệnh hoạn lây lất. Gần đây, lão phu nghe trong người thư thái, khỏe mạnh, tựa như trẻ lại mười tuổi vậy!

Tây Môn Giới mỉm cười đắc ý, lòng vô cùng cao hứng. Ông dịu giọng hỏi nghĩa tử:

- A! Dường như Sảng nhi có việc gì muốn bày tỏ nên mới đến đây sớm như vậy?

Tư Đồ Sảng gật đầu, điềm đạm thuật lại giấc mơ! Nghe xong, Trại Tôn Tử lập tức bấm tay dùng phép bói Lục nhâm mà tính toán cát hung!

Lục Nhâm là một loại Chiêm bốc thuộc loại Ngũ Hành, dựa vào sự khác nhau của Can Chi Ngũ Hành và số giờ mà chia "khóa"rồi căn cứ vào khóa nghĩa mà suy đoán lành dữ. Hai phép bói Thái ất, Tuần Giáp cũng tương tự như Lục nhâm!

Môn Lục nhâm rất cao siêu, vi diệu, chẳng cần phải gieo quẻ, chỉ dựa vào thời khắc hiện tượng xảy ra mà phán đoán tương lai! Thuở xưa Khổng Minh Gia Cát Lượng nhờ phép Lục nhâm mà nắm cả thiên cơ trong lòng bàn tay!

Còn hiện nay, Trại Tôn Tử là Tổ sư trong nghề bói Lục nhâm. Ông cau mày bảo:

- Giờ Giáp Ngọ tháng hai năm nay thuộc khoá Kê Minh, Giáp Ngọ xuất hành là điềm rồng xanh ở phía Tây. Đức tại Thổ, Hình tại Kim, báo hiệu nguy cơ trùng điệp. May thay, Sảng nhi lại đúng tuổi Giáp Ngọ nên tiền hung hậu cát.

Tây Môn Giới gật gù:

- Tiền hung hậu cát là tốt rồi! Nhưng dẫu sao thì chuẩn bị càng chu đáo sinh cơ càng nhiều! Hai người hãy theo lão phu xuống mật thất!

Ông rời bàn, đi vào phòng ngủ ở phía sau bức vách, ấn nút bí mật nào đó trên thành giường! Chín viên gạch bằng đá Đại Lý trước giường ngủ lập tức sụp xuống, để lộ cửa vào mật thất!

Hầm ngầm này vuông vức mỗi bề hai trượng, được soi sáng bằng tám ngọn đèn tọa đăng đế đồng trên vách. Tư Đồ Sảng lần đầu xuống đây, ngơ ngẩn trước bức tượng giống hệt mình. Và trong tay hữu của pho tượng là thanh Giáng Ma Phủ.

Tây Môn Giới bùi ngùi nói:

- Sau khi Sảng nhi bị Thanh Y nhân đánh rơi xuống vực thẳm Đại Hồ Sơn lão phu đã chế tác pho tượng này để nhớ đến nghĩa tử. Phía trong bộ võ phục viền lam kia là một chiếc áo chẽn bằng da bò Tây Tạng. Còn thanh Giáng Ma Phủ chính là thần vật mà lão phu đã tráo đổi của Thiện Đề đại sư! Cây búa mà Thiện Đề đang sử dụng chỉ là vật giả!

Tư Đồ Sảng cảm động đến rớt nước mắt trước lòng yêu thương vô bờ bến của nghĩa phụ!

Tây Môn Giới bước đến gỡ Giáng Ma Phủ ra khỏi bàn tay của pho tượng, trao cho Tư Đồ Sảng. Ông nghiêm nghị bảo:

- Sảng nhi! Con hãy hóa trang để đến núi Tần Lĩnh, may ra thoát được vài chặng mai phục của Hồ Ly Đế Quân! Ngươi mà có mệnh hệ gì thì chắc lão phu không sống nổi!

o0o Trưa ngày hai mươi tháng hai, Tư Đồ Sảng bí mật rời cơ sở tạm thời của Tổng đàn võ lâm bằng cách vượt tường sau. Ngựa và hành lý đã được Tây Môn Tứ đưa ra ngoài cửa Tây thành từ trước. Chàng ra roi phi nước đại, những mong đến Đại Ba Sơn càng sớm càng tốt.

Đại Ba Sơn là ngọn núi cao nhất rặng Tần Lĩnh, khoảng một ngàn hai trăm bốn mươi bốn trượng (4.107m). Đấy là tính theo thước đo thời nhà Minh, còn như dùng thước thời nhà Thương thì số lượng sẽ gấp đôi. Đời Thương một thước chưa đến gang tay (16,95cm) nên so ra chiều cao cơ thể con người ước chừng khoảng trên dưới một trượng, bởi thế mà có từ "Trượng phu". Sau này, chiều dài của trượng tăng dần song người ta vẫn dùng chữ trượng phu để chỉ một đấng nam nhi!

Nhưng giờ đây Tư Đồ Sảng chưa có mặt ở Đại Ba Sơn. Sáu ngày sau chàng mới đến Thiểm Huyện. Tuy mang tên Thiểm song địa phương này lại thuộc Hà Nam, cách ranh giới Thiểm Tây đến hơn trăm dặm. Thiểm Huyện nằm sát bờ sông Hoàng Hà và trên quan đạo chính Đông Tây.

Tư Đồ Sảng qua đêm trong thành, mờ sáng đã khởi hành. Cách cửa Tây hơn chục dặm, hai bên đường là rừng dã lê um tùm, cành nặng trĩu những quả vàng óng. Bìa rừng mé hữu có một quán rượu vách gỗ, mái ngói, phía trước quán cắm sào cao, trên phất phới lá tửu kỳ, và dựng một tấm bảng gỗ dán giấy vàng, viết nguệch ngoạc hai chữ "điểm tâm!"

Lúc này, vầng dương đã rạng rỡ đằng đông, Tư Đồ Sảng chưa ăn sáng nên ghé vào. Chàng không ngờ mình là người khách đầu tiên, ngoài ra chẳng còn ai khác. Tiểu nhị là một hán tử tuổi tứ tuần phốp pháp: Gã nhìn chàng rồi gượng cười mời mọc:

- Bẩm đại gia! Bổn quán có cả cơm lẫn bánh hấp, bánh bao, mằn thắn, mì nước! Dám hỏi đại gia dùng những món nào?

Các loại bánh mà người Trung Hoa ăn chủ yếu là bánh làm bằng bột mì... Thường thấy nhất là loại "bánh mì hấp" (Man đầu)... Man đầu có từ thời nhà Tấn...

Và bánh bao là một loại bánh mì hấp có kẹp nhân, đến thời Tống mới gọi là "bánh bao". Thời ấy về sau, bánh bao là một loại thực phẩm rất phổ biến, không những của người miền Bắc ưa thích mà người miền Nam cũng rất chuộng.

Mẫu thân Tư Đỗ Sảng là người miền Bắc, sinh trưởng ở Hàm Dương nên cũng rất khoái bánh bao. Bánh bà làm rất ngon khiến chàng chẳng thể quên!

Buổi sáng ăn cơm thì nặng bụng, bánh bao thích hợp hơn! Tư Đồ Sảng gọi chục cái bánh bao khiến gã tiểu nhị trung niên mừng hết lớn!

Tư Đồ Sảng ăn đến cái thứ sáu thì có bốn kỵ sĩ mang kiếm ghé vào quán, ngồi ở bàn ngoài cùng. Lát sau lại có thêm một tốp năm người nữa dừng cương, chiếm lấy bàn sau lưng Tư Đồ Sảng!

Bốn ngày qua, chàng không hề gặp phục binh nên nghĩ rằng nhờ ngày đi đêm nghỉ mà thoát được cạm bẫy của Hồ Ly Đế Quân. Dẫu pháp thuật cao cường thì đám thủ hạ của Đế Quân cũng không thể lộng hành lúc thanh thiên bạch nhật!

Thiểm Tây là lãnh địa của Hạo Thiên Cung nên Tây Môn Giới đã bắt con nuôi phải bang mặt nạ hóa trang thành một người tuổi ngũ tuần, râu ba chòm đen nhánh!

Tư Đồ Sảng lại rời Lạc Dương một cách bí mật, chỉ có vài người thân thiết nhất là biết được. Do vậy, không không sợ phe đối phương phát hiện ra!

Chín người khách mới vào quán không hề lưu ý đến Tư Đồ Sảng, thản nhiên gọi những món điểm tâm, vừa ăn vừa trò chuyện rôm rả!

Tư Đồ Sảng chàng hề nghi ngờ, ung dung ăn cái bánh bao thứ mười. Lúc này, gã tiểu nhị trung niên mang bình trà mới ra đổi bình trà cũ sắp cạn! Gã giả lả nói:

- Đây là trà Long Tĩnh thượng hạng do quán chủ chiêu đãi! Nhờ đại gia mở cửa hàng mà khách đến đông!

Gã vừa nói vừa rót vào chén sứ cho chàng! Tư Đồ Sảng nghe mùi thơm ngào ngạt mỉm cười gật đầu tỏ ý hài lòng rối bưng chén trà lên uống! Đúng lúc ấy viên Hắc ngọc trên ngực chàng rung động báo nguy cơ! Chàng giả đò thổi cho trà bớt nóng và âm thầm liếc nhanh bốn kẻ đang ngồi ở bàn ngoài cửa, nhận ra họ cũng nhìn mình chờ đợi!

May thay, Tư Đồ Sảng có thói quen ngồi bên cửa sổ nên giờ đây không phải húc đổ bức vách gỗ của tửu quán. Chàng hất ngay chén trà nóng hổi vào người gã tiểu nhị rồi chụp lấy tay nải và nhẩy qua cửa sổ, lao về hướng tuấn mã!

Nào ngờ, từ khu rừng lê đối diện, mấy chục gã kiếm thủ ùa ra chặn đường Tư Đồ Sảng. Chàng nhanh tay tháo sợi dây cương khỏi cành cây rồi rút gươm xông lên, mở đường máu thoát thân. Chàng ngờ ngờ đoán phe địch có thể là Song Tuyệt Môn nên thận trọng xuất chiêu Dương Hóa Điểm Điếm, dệt nên màn kiếm ảnh dầy đặc, công thủ có đủ!

Quả nhiên, bốn gã trước mặt chàng nhất tề vung tả thủ, dùng phép Mãn Thiên Hoa Vũ mà tạo ra trận mưa độc châm, bao phủ thân hình Tư Đồ Sảng!

Họ tấn công từ khoảng cách một trượng, dùng cả lực đạo cánh tay nên sức Kim thép bay khá mạnh. Tuy nhiên, Tư Đồ Sảng đã cẩn thận mặc áo choàng lông dài phủ gối, hai bàn tay mang găng da hươu thuộc.

Lưu vực sông Hoàng Hà thời ấy thuộc khí hậu ôn đới nên mùa xuân khá lạnh, việc mặc áo ngự hàn là bình thường.

Áo lông cừu không chống nổi gươm đao song lải có thể làm giảm lực công phá của những mũi kim thép nhỏ và nhẹ, hỗ trợ cho Khô Mộc Thần Công! Tư Đồ Sảng đã phát hiện ra tác dụng ấy sau lần chạm trán đầu tiên với Song Tuyệt Môn!

Giờ đây, chàng thản nhiên xông qua đám mây độc châm nhờ những trang bị ít ỏi ấy và lực từ tính của bảo kiếm! Muốn giấu thân phận Minh ChủTề Thanh Tuyệt nên Tư Đồ Sảng đã nhờ bọn Thất Tinh Linh Sứ cạo sạch lớp sơn đen và mài cho lưỡi gườm sáng loáng. Tất nhiên, từ tính không vì thế mà mất đi.

Chiêu Dương Hoa Điểm Điếm lại khá kín đáo, đầy những vệt sáng mỏng manh như lá liễu, và Từ Tâm Kiếm đã hút được rất nhiều độc châm. Tư Đồ Sảng ập đến trong sự kinh ngạc tột cùng của phe địch. Chúng liên thủ chống đỡ, hai gã trực diện còn hai gã kia uy hiếp tả hữu!

Nhưng những chấm nho nhỏ tựa hoa liễu trên màn kiếm ảnh của Tư Đồ Sảng đã biến thành hàng trăm thức đâm nhanh tựa sao sa, trổ lỗ trên ngực hai gã đối diện chàng và đẩy lùi hai tên kia!

Tư Đồ Sảng không hề dừng bước, lướt qua xác nạn nhân mà xông vào hàng ngũ đối phương. Trong đám đông, kẻ thù sẽ không dám phóng độc châm sợ hại lây đồng đảng. Đường kiếm của Tư Đồ Sảng cực kỳ nhanh nhẹn, chuẩn xác và mãnh liệt khiến những kẻ chặn đường không phải khốn đốn!

Giết xong hai mạng, lòng Tư Đồ Sảng đã có phần áy náy, liền nhắm vào cánh tay cầm kiếm của đối thủ mà đâm chém. Tay hữu luôn chuyển động nên là mục tiêu rất khó chạm đến. Hơn nữa, địch thủ của chàng đều là những tay kiếm lão luyện, tuổi trên bốn mươi. Họ liên thủ tấn công ráo riết, chặn đứng được Tư Đồ Sảng!

Và chàng trai nhân từ của chúng ta đã nhận ra những chiêu kiếm quen thuộc của Hạo Thiên Cung! Chàng giật mình e ngại, tự hỏi rằng chẳng lẽ Hạo Thiên Cung cũng bị rợ Mông mua chuộc, nên mới liên thủ với Song Tuyệt Môn?

Lứa giận bùng lên, Tư Đồ Sảng chẳng còn có thể nương tay với những kẻ mưu toan bán đứng sơn hà, xã tắc! Chàng xuất chiêu Toàn Phong Nhất Nộ, kiếm kình cuồn cuộn như lốc xoáy cuốn lấy hai gã kiếm thủ Hạo Thiên Cung!

Giáng Ma Kiếm Pháp chủ về lực đạo và Từ Tâm Kiếm thì khá nặng! Đường gươm của nạn nhân lập tức bị đánh bạt và để lộ sơ hở chết người. Tư Đồ sảng lạnh lùng đâm thủng ngực và bụng của hai kẻ xấu số ấy rồi xấn tới tìm mục tiêu khác?

Tiếng thép chạm nhau ghê người nhưng không làm át nổi tiếng rên la thảm thiết của những kẻ trúng đón, sắp lìa đời. Tư Đồ Sảng thi triển phép khoái kiếm đến độ chót, chỉ vài thế thức đã đắc thủ, khiến thây người liên tiếp đổ xuống. Chàng hạ một hơi mười sáu kẻ địch, phá thủng vòng vây, chạy về hướng Đông!

Tuấn mã của Tư Đồ Sảng cũng cất vó phóng theo, nhờ không người cởi nên cước lực nhanh như gió! Con ngựa này có tên là Hồng nhi, lông hung đỏ, dáng vóc bình thường và chẳng mang đặc điểm gì khác lạ. Nghĩa là người cỡi không sợ vì nó mà bị nhận dạng!

Hồng nhi giống hệt như chủ cũ của nó là Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới! Ông có thể hòa lẫn trong đám đông, thật tầm thường và khó nhận biết!

Tuy thế, Hồng nhi rất thông minh, luôn bám sát chủ nhân. Khi Tư Đồ Sảng chiến đấu, nó lảng vảng phía ngoài đấu trường mà chờ đợi chứ không vì sợ hãi những âm thanh ồn ào của trận chiến mà bỏ chạy!

Hồng nhi quen với Thiếu chủ từ lúc Tư Đồ Sảng còn ở Thúy Phong Cốc nên giờ đây ngoan ngoãn phục vụ chàng!

Nhắc lại, phe địch thấy con mồi thoát bẫy liền cuống cuồng bảo nhau lấy ngựa đuổi theo. Đương nhiên tốc độ của lũ ngựa này không cao vì phải cõng thêm người trên lưng. Trong khi ấy, Hồng nhi được thảnh thơi, cùng chủ đua tài nên phi nhanh như gió, trong chốc lát đã bỏ xa truy binh vài dặm. Lúc này Tư Đồ Sảng mới nhẩy lên yên, tiếp tục bôn hành.

Chiều ngày mười chín tháng hai, Tư Đồ Sảng đến ải Hàm Cốc, một trong hai cửa ngõ chính dẫn vào đất Tần thời Chiến Quốc, tức Thiểm Tây!

Địa hình nước Trung Hoa rất nhiều núi non hiểm trở. Các dãy núi lớn ở phía Tây thường chạy theo hướng Bắc Nam. Ngoài một chút là những rặng núi nhỏ, thấp hơn, nằm theo hướng từ Tây sang Đông. Những sơn lộ này chia Trung Hoa thành nhiều miền cách biệt, chỉ thông với nhau bằng những con đèo! Ví dụ như Hà Nam và Thiểm Tây chỉ có thể qua lại bằng hai lối duy nhất là đèo Hàm Cốc và đèo Vũ Quan!

Thuở xưa, nước Tần đã xây dựng quan ải kiên cố trên hai cửa ngõ này! Khi đất nước đã thống nhất thì cánh cửa ải không còn, và hàng hóa, ngựa xe tấp nập qua lại ải Hàm Cốc!

Thiểm Tây nằm trên cao nguyên Hoàng Thổ nên địa hình cao hơn Hà Nam. Nghĩa là đoạn đường đèo hướng Đông khá dài và ải Hàm Cấc nằm ở đỉnh.

Địa thế Hàm Cốc hiểm tuấn phi thường, xứng với câu "Nhất phu đương quan vạn nhân nan quá." Đường đèo có độ dốc khá lớn, hai bên là vách đá sừng sững, nên những đạo quân từ hương Đông tiến vào sẽ chẳng khác gì bầy gia súc bị lùa đến lò sát sinh!

Ải Hàm Cốc được xây dựng vô cùng kiên cố, nối liền hai vách đá chắn ngang đường đèo. Bức tường của quan ải dầy bốn năm trượng nên mặt bằng nóc ải rất rộng, có thể bố trí hàng ngàn quân cung nỏ!

Cửa ải hình vòm, cao và rộng rãi, đủ cho vài cỗ xe sánh vai qua lọt. Hiện tại thì cánh cổng quan ải đã không còn và cũng chẳng có quân binh canh gác. Đã mất vai trò ải địa đầu trọng yếu nên công trình đồ sộ ấy trớ thành hoang phế, tiêu điều, loang lổ rong rêu song vẫn hiên ngang thi gan cùng tuế nguyệt.

Chiều nay, đường đèo vắng tanh, chỉ có một người kỵ sĩ áo lông cừu đen lẻ loi. Tư Đồ Sảng đã lên được quá nửa con dốc, say mê ngắm dáng vóc lừng lẫy một thời. Vầng dương buổi hoàng hôn ở cuối trời tây đã rải nắng khắp rìa phố Tích khiến nó nổi bật trên nền trời xanh, có những đám mây trắng nhuốm hồng!

Nhưng khi còn cách cửa ải vài chục trượng, Tư Đồ Sảng chợt cảm thấy cảnh vật kia dường như thiếu vắng một nét nào đó? Chàng đã vài lần qua đây, từng nhìn thấy bầy quạ.đen bay lượn và quang quác trên nóc ải. Chúng đã chọn Tòa Địch lâu tróc ngói để làm tổ ấm. Và buổi chiều chính là lúc lũ chim ồn ào ấy quay về tổ.

Tư Đồ Sảng chột dạ cho ngựa bước chậm, chú tâm quan sát. Quả nhiên, lát sau, có một cánh quạ bay đến nhưng không đáp xuống mái Địch Lâu mà vội vã bay đi ngay!

Tư Đồ Sảng thở dài, hiểu rằng kẻ thù đã chọn địa thế hiểm ác của ải Hàm Cốc để mai phục. Trên nóc và phía sau quan ải chắc là có rất nhiều người đang chờ đợi chàng! Và cái bẫy này sẽ phải đáng sợ hơn chặng mai phục lần trước ở gần Thiểm Huyện!

Nhưng chàng bắt buộc phải vượt ải Hàm Cốc vì không còn thời gian để quay lại, xuống phía Nam để đi đường ải Đồng Quan, tức Vũ Quan nhưng mà trễ kỳ hạn thì sẽ mãi mãi không được nhìn thấy Bạch Phụng!

Tư Đồ Sảng không hiểu tại sao Hạo Thiên Cưng và Song Tuyệt Môn luôn phát hiện ra chàng và tìm được thời cơ thích hợp mà giăng bẫy? Phải chăng chính Hồ Ly Đế Quân đã mượn tay họ mà ngăn trở cuộc hành trình của chàng?

Tư Đồ Sảng là người can trường, bất khuất nhưng không phải hạng "Hữu dũng vô mưu!" Chàng suy nghĩ một lúc, cân nhắc thiệt hơn, rồi quyết định vượt ải lúc màn đêm bao phủ! Khi ấy, chàng sẽ chiếm được ưu thế nhờ nhãn lực phi thường! Ưu thế càng lớn thì sinh cơ càng nhiều!

Nghĩ vậy nên Tư Đồ Sảng quay ngựa đi ngược xuống chân đèo hướng Đông? Hành động này sẽ khiến đối phương hoang mang, không hiểu chủ ý của chàng. Có thể chúng sẽ đoán rằng Tư Đồ Sảng chờ đến sáng, hòa cùng đoàn lử hành đông đảo mà qua ải!

Chân đèo phía Đông có một trấn nhỏ, tập trung nhiều khách điếm, tửu quán và nhà thổ, để phục vụ những lữ khách, thương lái lỡ độ đường, đến đâu khi trời vừa tối nên chồng dám qua đèo!

Tư Đồ Sảng xuống đến trấn sơn cước ấy thì cảnh vật đã nhá nhem. Chàng ghé vào Thái Hòa lữ điếm mướn phòng trọ, khi bị gã tiểu nhị lực lưỡng níu kéo, mời mọc. Nhìn gâ, Tư Đồ Sảng bỗng nảy ra một ý hay!

Khoảng gần đến canh một, chàng gọi gã tiểu nhị họ Trần ấy vào phòng và nghiêm nghị bảo:

- Này Tiểu huynh đệ! Ngươi có muốn kiếm trăm lượng bạc hay không?

Và chàng đặt hai đĩnh bạc năm mươi lượng lên bàn khiến đôi mắt của Trần Khoát sáng rực lên. Gã nuốt nước miếng đáp:

- Bẩm lão gia! Chẳng hay người muốn tiểu nhân làm việc gì?

Tư Đồ Sảng từ tốn đáp:

- Lão phu có việc gấp phải đi Trường An song lại bị kẻ thù chặn ở cửa ải Hàm Cốc! Lão phu muốn nhờ ngươi thi hành kế nghi binh để lão phu có cơ hội vượt ải!

Trần Khoát nghe nói đến ân oán giang hồ liền tỏ ý lo ngại:

- Bẩm lão gia! Nghì binh như thế nào và liệu có nguy hiểm hay không?

Tư Đồ Sảng mỉm cười trấn an:

- Chẳng có gì đáng lo cả! Lão phu sê khởi hành trước và đúng một khắc sau ngươi sẽ cỡi con ngựa của lão phu và lên đèo. Và khi còn cách cửa ải năm sáu chục trượng thì ngươi quay ngựa trở về. Chỉ có vậy thôi! Tất nhiên, sau đó ngươi phải chăm sóc Tuấn mã mà chờ lão phu đến lấy lại!

Trần Khoát suy nghĩ rất kỹ lưỡng, tự nhủ rằng việc này quá ngon ăn, chẳng có chi đáng lo ngại cả! Hơn nữa, với trăm lượng bạc kia gã có thể cưới vợ và dư vốn để thoát khỏi cảnh tôi đòi trở thành một chủ quán trọ nho nhỏ.

Trần Khoát thò tay chụp lấy hai đỉnh bạc và cười hì hì:

- Tiểu nhân xin liều mạng phục vụ lão gia!

Tư Đồ Sảng dặn dò họ Trần thêm vài câu rồi vượt tường sau của lữ điếm. Trăng mười chín còn khuất sau đỉnh núi Hàm Sơn nên đường đèo rất tối tăm. chàng hài lòng hiểu rằng phe đối phương sẽ không thể nào phát hiện ra mình!

Tư Đồ Sảng ngậm Hắc Ngọc vào miệng, bước đi như gió thoảng vì cảnh vật trước mắt đã trở nên rất rõ ràng. Khoảng gần khắc sau, Tư Đồ Sảng chỉ còn cách cửa ải hơn chục trượng. Chàng nằm phục xuống bãi cỏ bên vệ đường mà quan sát và chờ đợi.

Đỉnh tường quan ải thường được xây theo hình răng lược, xen kẽ giữa những khu trống và ụ gạch, cao đến ngực để những cung thủ ẩn mình xạ tiến. Giờ đây, qua những khe ấy, Tư Đồ Sảng thấy thấp thoáng bóng người. Họ đang căng mắt nhìn xuống đoạn quan đạo gần cửa ải. Nghĩa là, nếu chàng liều mạng chạy qua cửa sẽ bị phát hiện vì khoảng cách quá gần!

Lát sau, tiếng vó ngụp lọc cọc khua động đêm trường, mỗi lúc một gần, khiến phe địch nhốn nháo, chuyển thị tuyến ra xa.

Tư Đồ Sảng biết đã đến lúc hành động, liền bò nhanh trên mặt đất mà tiến lên! Chiếc áo lông cừu đen đã là vật ngụy trang rất tốt!

Bọn cung thủ trên Địch Lâu nghe tiếng vó ngựa nên cho rằng đối phương còn ở xa, không chú ý đến khoảnh đất gần cửa ải nữa. Nhờ vậy, Tư Đồ Sảng đã an toàn đến được chân tường quan ải di chuyển về mé tả, đứng sát cạnh cửa vòm, thò đầu vào xem xét!

Thấy không có người, Tư Đồ Sảng men theo vách gạch mà lần đến mặt sau cửa ải! Chàng nhận ra hàng trăm cung thủ đang ngồi đầy trên hai cầu thang gạch ở hai bên đường. Đôi cầu thang này vốn được xây dựng để quân Tần trèo lên mặt quan ải.

Xa hơn một chút là chốt chặn của toán phục binh thứ hai. Nghĩa là, khi qua khỏi cửa ải là chàng sẽ trở thành ba ba trong rọ, vô phương tiến thoái?

Tư Đồ Sảng than thầm trong bụng, thi triển Bích Hổ Công bò lên nóc cửa vòm, treo mình chờ đợi!

Lát sau, tiếng vó ngựa của Trần Khoát xa dần vì gã đã quay trở xuống. Bọn cung thủ bực bội chửi thề ỏm tỏi. Xếp cung tên, rời vị trí tìm chỗ tiêu tiểu hoặc ngả lưng?

Tư Đồ Sảng thận trọng buông mình xuống đất, len lén bước ra, hoà vào bọn Hắc Y.

Trăng đã lên nhưng do đường đèo nằm lọt giữa hai vách đá cao nên không gian tranh tối, tranh sáng, khó nhìn rõ mặt người! Hơn nữa, trời đêm ở vùng núi non rất lạnh lẽo và có sương mù khiến phe đối phương phải mặc áo bông hoặc áo lông cừu, đa số là mầu đen!

Tư Đồ Sảng thản nhiên tiến về hướng trận địa mai phục của toán Hắc y thứ hai, cách cửa ải mười mấy trượng. Bọn này cũng đã uể oải tan hàng, kẻ đứng ngươi ngồi, miệng lầm bầm chửi rủa.

Tư Đồ Sảng hồi hộp bước đến cuối chặng mai phục, lòng thầm mừng rỡ. Từ vị trí này chàng có thể đào tẩu rất thuận lợi và không ai có thể theo kịp.

Nhưng dường như dáng vóc cao lớn của Tư Đồ Sảng đã khiến tên Hắc y sinh nghi, nhẩy ra quát hỏi:

- Này gã kia! Ngươi đi đâu thế? Mật khẩu?

Tất nhiên là Tư Đồ Sảng không biết mật khẩu của bọn chúng. Chàng chỉ nhận ra giọng nói và dung mạo của kẻ chặn đường. Lão ta chính là Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ!

Tư Đồ Sảng biết mình đã bị bại lộ liền rút gươm thần tốc, tấn công ngay. Tất Linh Kỳ lão luyện giang hồ nên đã sớm vận khí đề phòng. Giờ đây, lão kịp thời múa kiếm chống đỡ bằng một chiêu cực kỳ mãnh liệt, chủ yếu là chặn bước con mồi để đồng đảng vây lại!

Tiếc thay, lão đã không biết rằng nhãn lực Tư Đồ Sảng lại có thể nhìn xuyên đêm tối tựa loài cú vọ! Chàng dễ dàng hóa giải đường gươm ác độc và thọc một nhát vào ngực đối phương. Tất Linh Kỳ rú lên thảm thiết, ôm ngực gục ngã.

Nếu là ban ngày, Tư Đồ Sảng muốn giết được lão ta cũng phải trầy vi tróc vẩy. Nhưng đêm nay, chàng là kẻ sáng mắt còn họ Tất thì mù dở!

Tiếng thét lìa đời ghê rợn của Tiên nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ đã làm chấn động đêm trường. Bọn Hắc y ùa đến thì đã muộn vì Tư Đồ Sảng như mũi tên rời dây cung, lão vút vào màn đêm!

Thủ lĩnh thứ hai của chặng mai phục này chính là Giả Bạch Hồ. Gã giận dữ quát tháo:

- Mau lấy ngựa đuổi theo!

Lát sau, tiếng vó ngựa khua vang, Giả Bạch Hồ dẫn quân phi mau! Nửa canh giờ sau vẫn chẳng thấy bóng dáng của Tề Thanh Tuyệt họ đành phải bỏ cuộc vì lũ ngựa đã sùi bọt mép, kiệt lực!

o0o Chiều ngày hai mươi ba, Tư Đồ Sảng đến Trường An. Chàng không dám vào thành, đi vòng qua khu ngoại ô phía Tây, tìm nhà dân xin nghỉ trọ.

Mờ sáng, Tư Đồ Sảng đã lên đường, lòng thầm lo Hồ Ly Đế Quân cạn tàu ráo máng đến mức báo cho Hạo Thiên Cung biết mà bày binh bố trận ngay chân núi Đại Ba Sơn, lúc ấy thì mạng của chàng khó mà vẹn toàn!

Trưa hai mươi sáu, Tư Đồ Sảng đã vào được sơn vực Tần Lĩnh nhưng còn cách Đại Ba Sơn hơn một ngày đường. Tần Lĩnh là một trong những dãy núi lớn nhất Trung Hoa, mạch núi kéo dài hàng mấy trăm dặm theo hướng Tây Đông!

Tư Đồ Sảng gởi con ngựa mới mua cho một nhà tiều phu, mang theo túi nước và ít lương khô mà tìm đến chân hướng Nam Đại Ba Sơn!

Tần Lĩnh được bao bọc bằng những cánh rừng bạt ngàn, nhờ tiết xuân mà cành lá um tùm, xanh tốt. Tư Đồ Sảng thi triển khinh công lướt nhanh trên những lối mòn và luôn thận trọng căng mất quan sát phía trước, đề phòng cạm bẫy!

Xế chiều, Tư Đồ Sảng đã đi được hai chục dặm. Chàng bỗng nghe có tiếng nữ nhân rú thất thanh phát ra từ mé hữu đường mòn. Những âm thanh ấy vô cùng quen thuộc giống hệt lúc Bạch Phụng thét lên sợ hãi những tiếng sét kinh hồn.

Trái tim Tư Đồ Sảng đập mạnh vừa mừng vừa sợ. Chàng lao vút về hướng ấy, tuốt kiếm trần để chặt cành, phạt gai mở lối.

Chỉ lát sau chàng đã đến một con suối nhỏ, bề ngang chỉ độ hơn trượng, hai bờ ngổn ngang đá núi. Và trên một tảng đá tương đối bằng phẳng, sát mép nước, có một thân hình trắng trẻo dang nằm sóng sượt.

Tư Đồ Sảng kinh hãi nhẩy ào đến, kịp nhận ra phần đuôi của một con rắn vừa bò xuống suối. Chàng hiểu ngay rằng Bạch Phụng đang tắm giặt thì bị độc xà cắn trộm.

Chàng vội lật ngửa nạn nhậm lên và phát hiện nàng ta không phải là Bạch Phụng! Tư Đồ Sảng vô cùng bối rối trước thân hình trần truồng, không mảnh vải của người bị nạn! Cơ thể nàng ta còn đẹp và quyến rũ hơn cả Chiêu Hương, khiến Tư Đồ Sảng nóng cả mặt!

Chàng cố trấn tĩnh xem xét và tìm ra dấu răng độc xà ở huyệt Thiên Trì gần đầu vú bên trái!

Tư Đồ Sảng càng bội phần chí ngại, nhét vào miệng nạn nhân một viên giải độc đan. Thuốc này do nghĩa phụ chàng dựa theo Độc Kinh của Bát Tý Độc Vương mà bào chế, có thể hóa giải hàng trăm loại độc dược, chỉ trừ nọc của loài hải xà bụng vàng!

Đồng thời chàng nắm cổ tay nữ lang ấy, truyền chân khí vào huyệt Nội Quan, theo kinh thủ Quyết Âm Tâm Bào, dồn chất độc ra khỏi cơ thể qua miệng vết thương ở huyệt Thiên Trì!

Lạ thay, kinh mạch của nạn nhân lại bị bế tắc nơi huyệt Thiên Truyền trên bắp tay gần vai, khiến luồng chân khí của chàng không qua được! Và lúc này da mặt nữ lang đã xám lại, mắt trợn trắng. Tư Đồ Sảng kinh hãi cúi xuống, dùng miệng hút máu độc ra, tay hữu luồn xuống lưng, áp vào huyệt Mệnh Môn, truyền công lực để bảo vệ tâm mạch kẻ bị nạn.

Môi miệng tiếp xúc với ngọn ngọc phong ngồn ngộn, và mũi ngập tràn mùi hương da thịt nồng nàn, nên lửa dục trong lòng Tư Đồ Sảng bùng lên! Nhưng chàng mang cốt cách của bậc anh hùng, mau chóng kìm chế được dục vọng, chú tâm chữa trị cho nạn nhân!

Máu độc được hút ra hết và giải dược cũng đã phát huy tác dựng nên nữ lang kia thoát chết, sắc mặt tươi lại, nhịp tim điều hòa. Nàng ta vẫn chưa hồi tỉnh, mắt nhắm nghiền nằm thiêm thiếp.

Tư Đồ Sảng thở dài rầu rĩ cởi áo lông mặc cho nàng ta rồi ngồi chờ đợi. Chàng không thể nhẫn tâm bỏ đi được dù lòng nóng như lửa đốt. Lát sau, bệnh nhân cựa quậy khiến vạt áo lông cừu phanh rộng, để lộ đôi chân dài khêu gợi! Nàng ta rên rỉ vì mê sảng, lăn lộn không yên. Có lúc nàng làm bung cả phần áo phía trên, phơi bày trọn vẹn đôi gò bồng đăo no tròn, mơn mởn tựa quả tuyết lê!

Tư Đồ Sảng bấm bụng khép áo lại cho kín đáo và cố lay gọi bệnh nhân lai tỉnh. Dần dà, chàng bị gương mặt tuyệt đẹp của nàng ta thu hút, thầm công nhận thê thiếp của mình không ai sánh nổi.

Gần khắc sau nữ lang mới mở mắt và ngồi dậy. Nàng nhìn chàng say đắm và cười bảo:

- Tướng công quả là bậc kỳ nam tử hiếm có, thiếp vô cùng kính phục!

Và gương mặt nàng bỗng biến thành dung nhan của Bạch Phụng khiến Tư Đồ Sảng vui mừng khôn xiết, ôm chặt lấy mà hôn. Chàng hân hoan đến ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:

- Phụng muội! Nàng không hiểu lòng ta hay sao mà lại bày trò thử thách như vậy!

Bạch Phụng mỉm cười không nói, thè lưỡi liếm mặt chàng tỏ ý mời gọi ái ân! Tư Đồ Sảng cũng đang khao khát nên nồng nhiệt đáp ứng ngay, không để ý đến việc thân hình ái thê nẩy nở khác thường!

Chàng đắm mình trong những trận mây mưa cho tỏ lòng nhung nhớ. Bạch Phụng liên tiếp bồng bềnh trên đỉnh sóng tình, rên rỉ ngợi ca hoan lạc, xiết chặt mãi thân hình cường tráng của tình lang. Nàng đòi hỏi nhiều hơn thường lệ, cử như sắp phải chia tay vậy!

Hàng canh giờ sau đôi uyên ương mãn nguyện nằm bên nhau trên chiếc áo choàng lông. Theo thói quen, Tư Đồ Sảng vuốt ve đôi nhũ phong ái thê và sực nhớ ra rằng chúng lớn hơn trước! Chàng ngơ ngác hỏi:

- Phụng muội! Vì sao cơ thể nàng giờ đây lại nẩy nở và đẹp hơn!

Bạch Phụng bật cười khúc khích, ngồi lên và thổi một luồng hơi thơm tho vào mặt chàng. Tư Đồ Sảng bỗng nghe toàn thân tê liệt, không sao cử động được nữa. Chàng còn kinh hãi hơn khi thấy gương mặt Bạch Phụng hóa thành nữ nhân lúc nãy! Nàng ta cười chúm chím, tình tứ bảo:

- Thiếp không phải Bạch Phụng mà chính là Vương Phi của Hồ Ly Đế Quân, được lệnh gài bẫy chàng. Nếu chàng nổi tà tâm trước nhan sắc của thiếp thì sẽ bỏ mạng! Nào ngờ, chàng lại giữ được lòng thanh bạch, thoát khỏi cạm bẫy, khiến thiếp vô cùng ngưỡng mộ, biến thành Bạch Phụng để dâng hiến cho bậc anh hùng!

Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp:

- Nếu Đế Quân biết được việc này mà nổi ghen thì tại hạ khó hội ngộ với Bạch Phụng!

Hồ Ly nữ nhân vui vẻ trấn an:

- Chàng đừng lo! Thiếp đã bủa thiên la địa võng quanh đây nên Đế Quân chẳng thể nào biết được!

Nàng ta âu yếm nói tiếp:

- Để kỷ niệm duyên tương ngộ, thiếp xin tặng chàng một bảo vật. Viên ngọc nhỏ này sẽ giúp chàng lột xác, trở lại tuổi thanh xuân!

Nói xong, nàng vuốt mặt Tư Đồ Sảng, giải tỏa yêu pháp để chàng có thể cử động được. Rồi nàng nhả ra bàn tay một viên ngọc màu xanh Phi Thúy, nhỏ cỡ hạt lạc.

Hồ Ly Vương Phi nhét ngọc vào miệng Tư Đồ Sảng và bảo chàng nuốt. Lát sau, Tư Đồ Sảng nghe cơ thể nóng ran, da dẻ ngứa ngáy khủng khiếp. Chàng gãi đến đâu thì lớp da nơi ấy bong ra. Hồ Ly Vương Phi giúp chàng lột bỏ vùng lưng thái độ dịu dàng, ân cần.

Tư Đồ Sảng ngắm nghía làn da mịn màng của tuổi thanh xuân mà lòng ngập tràn cảm kích. Chàng vươn tay kéo Hồ Ly Vương Phi vào lòng và thì thầm:

- Ơn này kiếp sau ta sẽ báo đền!

Hồ Ly Vương Phi cười khúc khích:

- Thiếp là Hồ Ly Tinh, đứng ngoài luân hồi nên không còn kiếp lai sinh! Chỉ có chàng mới phải đầu thai thôi!

Và nàng liếm mặt chàng, ánh mắt đầy vẻ khát khao. Tư Đồ Sảng hiểu ý hôn lên đôi môi chín mọng của nàng!

Sau trận ái ân tiễn biệt, Hồ Ly Vương Phi biến mất. Tư Đồ Sảng bâng khuâng như người vừa đánh mất bảo vật, lững thững xuống suối tắm gội. Chàng ăn vội vài miếng thịt dê sấy rối lên đường, mặc dù trời đã về chiều!

Nỗi vui được trẻ lại đã khiến chàng vô cùng biết ơn Hồ Ly Vương Phi và bất giác sinh lòng yêu mến. Chàng còn thầm cao hứng vì đã cắm sừng cái lão Hồ Ly Đế Quân chết tiệt kia! Lão định cướp vợ của chàng không ngờ lại bị mất trước!

o0o Chiều ngày hai mươi bẩy, Tư Đồ Sảng đã có mặt ở chân núi hướng Nam Đại Ba Sơn. Chàng vận công gọi lớn:

- Tại hạ là Tư Đồ Sảng đã đến theo lệnh đòi, mong Đế Quân cho phép được yết kiến!

Nhưng chàng gọi mãi mà chẳng thấy ai lên tiếng hoặc xuất hiện, đành tìm chỗ nghỉ ngơi và chờ đợi! Chàng nhẩy lên tảng đá khổng lồ gần đấy, mở túi lương khô ra ăn uống.

Tư Đồ Sảng đã mang vào chiếc mặt nạ già nua lúc khởi hành, tay đeo găng kín mít, để che giấu lớp da trắng trẻo mịn màng. Chàng sợ lộ mối ân tình ngắn ngủi với Hồ Ly Vương Phi!

Mờ sáng, Tư Đồ Sảng chợt nghe tiếng cành lá khua động vội ngồi lên xem thử. Chàng than thầm khi phát hiện vòng vây đã khép chặt bởi hơn ba chục quái nhân thân hình khôi vĩ, tay cầm chùy thép, người mặc giáp sắt.

Chàng ước lượng trọng lượng mỗi cây chùy có gai ấy phải trên hai chục cân, liền rút Giáng Ma Phủ ra. Giờ đây chàng mới hiểu tác dụng lời khuyên của Bạch nhạc phụ, cha Bạch Phụng. Từ Tâm Kiếm không thể nào chịu đựng nổi những cú đập như trời giáng của cây chùy. Và chỉ có Giáng Ma Phủ mới đủ sức phá được lớp giáp sắt trên người bọn quái nhân kia! Tư Đồ Sảng nhẩy xuống đất, đứng dựa tảng đá để khỏi phải đề phòng phía sau.

Đám quái nhân đã đến nơi, phơi bày những gương mặt xám xịt, sần sùi và ánh mắt vô hồn. Cước bộ của chúng khá mau lẹ chứ không hề chậm chạp dù phải mang giáp nặng.

Hai tên lướt đến tấn công Tư Đồ Sảng, chùy kình vun vút, khí thế như bão tố, chẳng phải chúng đánh bừa mà có chiêu thức hẳn hoi.

Tư Đồ Sảng xuất toàn lực đánh chiêu Tảo Vân Tần Nguyệt, chặn đứng đường chùy của hai kẻ địch! Và chàng thọc mũi thép nhọn ở đầu búa vào ngực quái nhân mé hữu. Sau đó thuận thế xoay lưỡi búa chém vào sườn gã mé tả.

Đòn đâm không đủ mạnh để phá thủng lớp giáp sắt, chỉ đẩy được đối phương văng ra. Nhưng thế chém của Tư Đồ Sảng rất mãnh liệt nên đã cắt phăng áo giáp và chặt gẫy xương gã thứ hai!

Nạn nhân đau đớn gầm lên những âm thanh man rợ, gượng đứng lên nhưng lại khụy xuống vì vết thương quá nặng. Bọn phía sau hung hăng ào lên thay thế, chẳng hề sợ hãi vì cái chết của đồng đảng. Nhưng Tư Đồ Sảng thần dũng tuyệt luân, kiên cường chống trả và lần lượt đả thương hoặc hạ sát từng tên!

Hai loại vũ khí nặng chạm nhau chát chúa, làm náo động cả vùng núi non tĩnh mịch. Tư Đồ Sảng nghe cánh tay tê chồn, lòng thầm khâm phục sức lực của bọn quái nhân!

Cuối cùng, chỉ còn một phần ba số quái nhân được lành lặn, đạp xác đồng đội mà xông vào! Nhưng xa xa có tiếng còi sắt ré lên cao vút, bọn chúng mới chịu bỏ cuộc, chạy đi!

Tư Đồ Sảng mệt muốn đứt hơi, đứng dựa lưng vào tảng đá mà thở dốc, thầm mừng vì tai họa đã qua! Chàng nhẩy lên đỉnh tảng đá, vớ lấy túi da uống ừng ực vì đang khát khô cả họng!

Tư Đồ Sảng. vẫn cảnh giác quay mặt ra ngoài nên sớm nhìn thấy ba bóng người đang lướt đến. Chàng ngao ngán nhận ra Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh đi cùng Giả Bạch Hồ và Triển Phi Hoan! Trong tình trạng sức lực mỏi mòn này, chàng không thể nào địch lại kẻ thù!

Tư Đồ Sảng đứng yên, tranh thủ thời gian nghỉ ngơi cố phục hồi được được phần nào chân khí để thêm sinh cơ!

Thiên Thư Tú Sĩ cười khanh khách:

- Té ra ngươi chính là Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng! Lão phu không ngờ ngươi lại còn sống sót khi rơi xuống vực sâu!

Tư Đồ Sảng lạnh lùng bảo:

- Ta biết mình hôm nay khó lòng thoát chết, mong lão trả lời ta một câu hỏi!

Lăng Quân Vĩnh gật gù đắc ý và nói ngay:

- Chính lão phu là người đã cùng Tần Cốc Lý hạ sát song thân ngươi đấy khỏi cần phải hỏi!

Tư Đồ Sảng đau đớn gầm lên:

- Lão thất phu kia! Hãy đền mạng cho cha mẹ ta!

Lăng Quân Vĩnh cười nhạt:

- Ngươi cứ việc nhẩy xuống mà đòi nợ, lão phu sẽ trả gấp đôi!

Nào ngờ, cánh tay hữu của Triển Phi Hoan bỗng vung lên, ánh thép sáng ngời. Gã cắm phập mũi tiểu đao vào giữa lưng Thiên Thư Tú Sĩ rồi lập tức rút đao tấn công Giả Bạch Hồ. Lăng Quân Vĩnh trúng đòn trí mạng toàn thân run lẩy bẩy và ngã quị.

Tư Đồ Sảng mừng rỡ tung mình xuống, bủa lưới thép vào đầu Giả Bạch Hồ. Gã đang bị Triển Phi Hoan tấn công ráo riết nên không sao tránh khỏi chiêu Hắc Vân Áp Đỉnh, thân hình bị Giáng Ma Phủ chẻ dọc làm hai mảnh.

Tư Đồ Sảng bùi ngùi ôm lấy Triển Phi Hoan và nói:

- Cảm tạ triển Đại ca!

Họ Triển bỗng xô chàng ra và nghiêm nghị bảo:

- Nhị đệ! Ta chính là Tư Đồ Phi Hoan, đại ca của ngươi đây! Gia mẫu là Vu Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu, từng chung sống với phụ thân của chúng ta!

Tư Đồ Sảng hiểu ngay rằng gã nói thực, liền lột mặt nạ, quì xuống chống tay thi lễ, run giọng gọi:

- Đại ca!

Phi Hoan mỉm cười đôn hậu, đỡ chàng dậy. Hai người nhẩy lên đính tảng đá mà trò chuyện. Phi Hoan buồn rầu kể lại nguồn cơn:

- "Ngày ấy, Tiên phụ đưa Tiên mẫu trốn khỏi núi Vu Sơn, xuống đò để sang bờ Nam sông Trường Giang. Họ định đến Côn Minh xây tổ uyên ương và tránh sự truy tầm của Mân Xuyên Bá Đao.

Nào ngờ, khi thuyền vừa đến giữa sông thì mưa to gió lớn nổi lên dữ dội, khiến một chiếc thuyền buôn, đang xuôi giòng, đâm sầm vào đò ngang. Đò bị đắm, hành khách rơi cả xuống dòng sông đang cuồn cuộn sóng dữ và mịt mù mưa bão!

Do đó, hai người đã lạc nhau. Tiên mẫu sống sót là nhờ vớ được một mảnh ván đò. Bà dạt vào bở, được một ngư ông giúp đỡ. Tiên mẫu hồi phục, quay lại đoạn sông đã xảy ra tai nạn mà dò hỏi thì nghe nói rằng chẳng một ai thoát chết! Cha của chúng ta không biết bơi nên khả năng sống sót rất ít!

Tiên mẫu tuyệt vọng tìm đến Lô Sơn nương tựa người cậu ruột. Lúc này, bà đã mang thai mà không biết!"

Phi Hoan sa lệ, áy náy kể tiếp:

- "Vì ta là thai ngang nên Tiên Mẫu suýt chết khi sanh nở. Kể từ đó bà yếu hắn đi, thường xuyên bệnh hoạn. Nhà Cửu công lại nghèo nên tình cảnh càng bội phần khốn khó.

Từ năm mười lăm tuổi ta đã phải vào rừng chặt củi để nuôi mẹ, song chỉ đủ ăn chớ không khá nổi! Cuộc sống chật vật, thiếu thốn đã khiến Tiên mẫu qua đời lúc tuổi chưa đến sáu mươi! Trước khi chết, bà dặn ta tìm đến Tư Đồ Gia trang ở Phúc Châu để nhận Tông Môn! Nào ngờ, khi ghé vào xem Đại hội võ lâm ta lại gặp Nhị đệ! Và lúc cùng ngươi về Hàm Dương tảo mộ ta mới biết ngươi là em cùng cha khác mẹ!"

Gã bật khóc và Tư Đồ Sảng cũng vậy! Lát sau, chàng gạt lệ hỏi:

- Sao Đại ca biết Lăng Quân Vĩnh là kẻ thù mà bám theo?

Phi Hoan tư lự đáp:

- Lúc đầu, ta dự định xâm nhập Kỳ Lân Bang để giết Thập Tự Thần Kiếm Phan Từ Mỹ mà báo thù. Nhưng khi tiếp xúc với lão ta mới biết ai là hung thủ thực sự. Ngu ca liền quay lại Hạo Thiên Cung, hết lòng hầu hạ Thiên Thư Tú Sĩ và xin làm học trò. Nhờ vậy ta được biết lão ấy cũng chính là anh em song sinh với Thanh Y nhân, kẻ đã đẩy ngươi xuống vực thẳm!

Tư Đồ Sảng kinh ngạc kêu lên:

- Thực thế sao?

Phi Hoan gật đầu xác nhận:

- Anh em Lăng lão quỉ luyện pho Âm Dương Chân Kinh, và may mắn tìm được một nhánh Thiên Niên Hà Thủ Ô, nên công lực rất thâm hậu, có thể thi triển hai loại tuyệt học đối kháng!

Và gã hỏi lại:

- À! Thế Nhị đệ đến đây làm gì?

Tư Đồ Sảng sực nhớ ra vội mang lại mặt nạ già nua rồi kể sơ việc của Bạch Phụng.

Phi Hoan ngạc nhiên trợn mắt:

- Té ra có Hồ Ly Tinh thực sao?

Gã mỉm cười nói tiếp:

Vậy thì ta không nên có mặt! Ngu ca sẽ về Trường An trước, hẹn gặp nhau ở Vị Thủy đại lữ điếm!

Nói xong, gã nhẩy xuống đất, lục lọi hai xác chết, vơ vét vàng bạc để làm lộ phí. Bỗng Phi Hoan reo lên:

- Nhị đệ! Ta tìm thấy quyển Âm Dương chân kinh! Tặng cho ngươi đấy!

Gã ném quyển sách cũ lên tảng đế cho Tư Đồ Sảng rồi đi ngay!

Tư Đồ Sảng hiếu kỳ lật ra xem thử, lát sau cất vào trong áo. Chờ đợi mãi, Tư Đồ Sảng mệt mỏi nằm thiếp đi và tỉnh giấc vì cái lưỡi ẩm ướt quen thuộc. Chàng ngồi bật dậy, nhấc con chồn nhỏ lên hỏi dồn:

- Phải chăng Hồ Ly Đế Quân đã thả nàng ra?

Chồn không biết nói nên chỉ gật đầu!

o0o Hơn nửa tháng sau, Tư Đồ Sảng và Triển Phi Hoan về đến Lạc Dương. Trương Thiên Sứ cũng có mặt sau chuyến thượng kinh nên Tây Môn Giới bắt tay ngay vào việc Đảo Mệnh cho Phi Tuyết, Phi Hồng!

Trưa mười chín tháng ba, Tư Đồ Sảng đánh xe song mã đến núi Thanh Sơn theo sự chỉ dẫn của Bạch Phụng mà trèo lên sườn phía Tây. Chàng phát hiện một động đá rất lớn và bên trong là hai nữ nhân Bạch Y, trên áo vẽ đầy những nét bùa chú ngoằn ngoèo. Họ ngơ ngẩn nhìn chàng bằng ánh mắt vô hồn.

Tư Đồ Sảng cố nén nỗi thương tâm, nhặt hai chiếc lọ sành ở góc động, bỏ vào tay nải. Chúng cũng được dán bùa vàng chữ đỏ ngang nắp.

Sau đó, Tư Đồ Sảng ôm cả hai ái thê lên, đưa xuống núi, đặt vào xe mà chở về Lạc Dương.

Đàn tế đã dựng sẵn, Đảo Mệnh Linh Kỳ cắm ở một góc. Sau nửa canh giờ tụng niệm, đốt bùa, Linh Kỳ bỗng tung bay phất phới, mặc dù trong sảnh chẳng hề có gió!

Trương Thiên sư mừng rỡ, mở nắp hai hũ sành. Kỳ diệu thay, Phi Tuyết, Phi Hồng đang quỳ bất động trước Đàn tế bỗng đứng lên, chạy đến ôm Tư Đồ Sảng mà khóc vùi! Cả nhà hân hoan cười vang, hết lời ca ngợi pháp lực của Linh Kỳ!

Ba ngày sau, Tư Đồ Sảng đưa Triển Phi Hoan cùng bốn ái thê cùng con chồn trắng về Phúc Châu thăm nội tổ mẫu và các biểu muội. Hôn lễ của chàng sẽ được tổ chức ở đấy sau hai tháng nữa. Tây Môn Giới, Trại Tôn Tử, Liễu Mộ Hào cũng đi theo!

Đoàn người đến nơi lúc gần giữa tháng năm, bàng hoàng nhận ra cửa trang treo hai chiếc đèn lồng tử khí Phong Đăng, báo hiệu rằng nhà có người chết!

Tư Đồ Sảng ứa nước mắt, rời lưng ngựa lao vào đại sảnh như cơn lốc. Tư Đồ Lão Thái và mấy người đang mặc tang phục bật khóc. Khi thấy chàng, Lão Thái mếu máo nói:

- Tạ ơn hoàng thiên đã xui khiến cho Sảng nhi về kịp lúc! Trước khi từ trần Ly nhi cứ nhắc ngươi mãi! Lão thân đã có ý tác hợp cho hai cháu nhưng không ngờ Ly nhi vắn số, chỉ có bệnh vài ngày là tuyệt khí!

Tư Đồ Sảng đau lòng khôn xiết, đến ôm áo quan mà khóc và khấn vái:

- Biểu muội? Kiếp này không duyên nợ thì đành hẹn kiếp lai sinh?

Chàng tưởng nhớ đến gương mặt kiều diễm của cố nhân mà thương tâm vô hạn! Lẽ nào trời xanh quen thói má hồng đánh ghen, bắt kẻ thanh xuân nhan sắc phải chết non?

Bỗng thính giác tinh nhậy của chàng phát hiện trong quan tài có tiếng gõ bồm bộp! Chàng vội áp tai vào lớp gỗ nghe cho kỹ và mừng rỡ rú lên:

- Tam biểu muội đã hồi sinh!

Cả nhà kinh ngạc, không tin vào tai mình, trố mắt nhìn cảnh Tư Đồ Sảng nhổ bật nấp quan tài, bồng Bạch Ly ra!

Tiếng reo hò hòa cùng tiếng khóc hân hoan mừng người chết hoàn dương. Bạch Ly cười rạng rỡ, tuột khỏi tay Tư Đồ Sảng, chạy vào sau thay y phục.

Linh Hối Tử vội sai bọn gia nhân dọn dẹp quan tài và bàn tế vong vì không còn cần đến nữa!

Đến lượt Tư Đồ Phi Hoan ra mắt bà nội. Gã cũng thấp lùn như Tư Đồ Quát khiến Lão Thái vô cùng xúc động, ôm lấy khóc ròng!

Kế tiếp, bốn ả cháu dâu nghiêng mình, bái kiến, nhan sắc của họ đã khiến Tư Đỗ Lão Thái hài lòng, tấm tắc khen.

Sau một lúc chuyện trò, khách được đưa vế phòng ở hậu viện. Tư Đồ Sảng mở tay nải ra thì phát hiện con chồn trắng đã chết! Chàng kinh hoảng bật khóc! Nhưng Bạch Ly đã chạy vào ôm chàng mà liếm mặt!

Tư Đồ Sảng đã hiểu ra, hôn nàng và nghẹn ngào gọi:

- Phụng muội!

Bạch Phụng đưa bàn tay búp măng chận miệng chàng và nghiêm nghị bảo:

- Tướng công! Bí mật này chỉ riêng đôi ta biết, không được để lộ đến tai người thứ ba. Thiếp vì quá yêu chàng mà liều lĩnh phạm luật trời, lòng luôn nơm nớp lo sợ. Hơn nữa, nếu bốn nàng kia biết thiếp là Hồ Ly tinh thì tình nghĩa chị em chung thuyền sẽ khó mà đậm đà được!

Tư Đồ Sảng đồng tình:

- Nàng nói chí phải! Từ nay ta sẽ xem nàng là Ly muội!


Meow! Sen Ơi Đừng Sợ
Phiên bản dành cho Android tại đây!
Hồi (1-19)


<