Vay nóng Tinvay

Truyện:Sáp huyết - Hồi 116

Sáp huyết
Trọn bộ 119 hồi
Hồi 116: Phong tướng
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-119)

Siêu sale Shopee

Hoàng hà viễn thượng bạch vân gian

Nhất phiến cô thành vạn nhận sơn

(Bài thơ: Xuất Tái của Vương Chi Hoán. Dịch thơ:

Dòng sông như chảy lên trời thẳm

Treo giữa trùng sơn một ải quan)

Ngược lại tiếng sáo Khương truyền về Ngọc Môn, Địch Thanh thuận theo nước Hoàng Hà ngựa dẫm quan sơn. Hôm nay, lại về tới Biện Kinh.

Ngàn dặm đắng phong trần, kinh thành phồn hoa như trước. Sau khi Địch Thanh tới kinh thành, đúng lúc gặp trời lạnh gió rét, thở ra thành khói. Thái dương hắn cũng sớm trắng như sương, thấy kinh thành mười mấy năm thịnh vượng như ngày nào, chỉ là kéo thấp mũ mềm, lẳng lặng tới Quách Phủ.

Trước cửa Quách phủ vô cùng yên tĩnh, rất là vắng vẻ.

Địch Thanh thầm nghĩ

"Theo tin tức, Quách Quỳ chắc còn ở trong kinh thành chờ lệnh. Ta sớm bảo Hàn Tiếu cho bồ câu truyền tin trước, thông báo cho đệ biết ta sẽ trở về, có thể đệ ấy ở trong phủ đợi ta không? Ôi, ta, Quách đại ca và tiểu Quỳ ba người cả đời bôn ba bên ngoài, Quách phủ này sớm đã phủ đầy tro bụi rồi à?"

Cửa lớn khép hờ, Địch Thanh đẩy cửa vào, tìm một hồi, phát hiện được chỗ nào có cũng bụi bậm. Nhưng phòng của Quách Quỳ, mình và phòng của Quách Tuân, vẫn thu dọn ngăn nắp sạch sẽ.

Địch Thanh thấy vậy, hơi giật mình một lát, khóe miệng lộ ra nụ cười chua xót, biết nhất định là Quách Quỳ thu dọn, có lẽ trong suy nghĩ Quách Quỳ, Địch Thanh và Quách Tuân chưa từng rời xa y.

Ngồi ở trong phòng Quách Quỳ, Địch Thanh chờ tới lúc hoàng hôn mặt trời lặn vẫn không thấy Quách Quỳ quay về, trong lòng hơi có lấy làm lạ. Nghĩ ngợi một lát, nhấc bút nhắn lại, nói mình đã về, đi ra ngoài một chút, nếu sau khi Quách Quỳ về đến, không được ra ngoài, đợi hắn quay về.

Địch Thanh ra Quách phủ, mặc quần áo bá tính bình thường, vẫn đội mũ mềm, không muốn bị người ta nhận ra.

Bước đi lững thững, cảm thấy trong bụng vừa đói vừa khát, nhớ tới tửu quán của ông già Lưu chính là ở gần đây, nhắm hướng mà đi. Tới trước tửu quán, nhìn thấy bên trong một chiếc đèn cô quạnh, trong tửu quán chỉ ngồi một người, người đó đối lưng với Địch Thanh, đang bưng ly rượu đổ vào miệng.

Địch Thanh thấy người đó tóc hoa râm, giống như là ông già Lưu, nhẹ đi tới, thì nghe người đó lẩm bẩm nói:

- Tỷ tỷ... tỷ tỷ vẫn khỏe không, tỷ tỷ ở bên đó, chắc là lãnh lẽo lắm?

Âm thanh đó nghẹn ngào, đầy là bi ai, trong có còn lẫn chứa ý ưu buồn căm phẫn. Địch Thanh chau mày, cảm giác người đó không phải ông già Lưu, vòng qua nhìn, giật mình nói:

- Ông là...

Hắn rõ ràng thấy khuôn mặt của người đó, biết mình nhận nhầm người, người đó màu da ngăm đen, gầy đến hai má hãm sâu, thần sắc tiều tụy.

Địch Thanh chợt nhìn người đó, cho rằng mình không quen, nhưng không biết tại sao, luôn cảm giác có chút quen mặt.

Người đó ngẩng đầu nhìn thấy Địch Thanh, đột nhiên nhảy dựng lên, bình rượu cũng quăng xuống đất, "binh" một tiếng vang lên, y nhìn Địch Thanh, cắn chặc răng, trong mắt lộ ra ý cực kỳ kinh hãi.

Lúc Địch Thanh nhìn khuôn mặt đó, cố gắng tìm tòi người này rốt cuộc là ai, thì nghe thấy người đó kêu to một tiếng, lật ngược cái bàn, xoay người xông ra khỏi tửu quán.

Địch Thanh giơ tay, kéo giữ người đó gọi:

- Lý quốc cữu, sao là ngài?

Lúc hắn thấy người đó xoay người, ngược lại cảm giác có chút ấn tượng, suy nghĩ một hồi, đã nhớ ra người đó là ai.

Người đó chính là Lý Dụng Hòa, đệ đệ của Lý Thuận Dung, cũng chính là cậu của đương kim Thiên tử Triệu Trinh.

Người đó bị Địch Thanh bắt lấy, dùng sức giẫy giụa, hô:

- Ngươi buông tay ra, ngươi nhận nhầm người rồi. Y ra sức giãy giụa, trên trán cũng có mồ hôi chảy xuống. Địch Thanh thấy người đó chỉ là ra sức phủ nhận, khuôn mặt tiều tụy sợ hãi, không đành lòng nắm mạnh, buông lỏng tay.

Người đó lảo đảo một vòng, thiếu chút nữa ngã nhào lên đất, nhưng nhanh chóng chạy đi, không thấy bóng dáng.

Địch Thanh rất là quái dị, thầm nghĩ người đó rõ ràng chính là Lý Dụng Hòa, mình chắc chắn không nhận nhầm. Nhưng tại sao người đó vội vàng phủ nhận như vậy, hơn nữa hoảng hốt nhiều như vậy?

Địch Thanh đứng ở đó, tràn đầy khó hiểu, nghe sau lưng tiếng bước chân vang lên, quay đầu nhìn qua, thấy từ hậu đường đi ra chính là ông già Lưu.

Ông già Lưu nhìn thấy Địch Thanh, vừa mừng vừa lo, ân cần thăm hỏi một phen, lại nhanh nhẹn bưng tới rượu và thức ăn, nói:

- Địch tướng quân, bọn họ đều nói ngài chết rồi, lão nói người như ngài, làm sao có thể chết chứ?

Lời nói lão chân thành, trên mặt già nua đầy là vẻ vang.

Địch Thanh lòng thấy cảm kích, chỉ là nói:

- Ta quả thật gặp nạn, nhưng sau đó vô sự.

Hắn biết ông già Lưu rất nhớ Quách Tuân, nhưng cũng hiểu Quách Tuân không muốn lộ diện, do đó cũng không nói tới chuyện này.

Vẻ mặt ông già Lưu đầy vui mừng, cùng Địch Thanh uống hai chén rượu, sau đó hỏi:

- Địch tướng quân, lần này ngài về kinh, là phụng chỉ muốn đánh Mã Trí Thư ở Lĩnh Nam hả?

Địch Thanh do dự một chút mới nói:

- Nước có nạn ngập đầu, nếu cần tới Địch Thanh ta, thì ta ra trận.

Ông già Lưu kinh ngạc nói:

- Bọn họ không cần Địch tướng quân, còn cần ai chứ?

Địch Thanh trong lòng cười khổ, thầm nghĩ ta có lòng báo quốc, nhưng triều Tống chưa hẳn hy vọng cần ta. Mấy năm nay, ta lên chức rất nhanh, đắc tội không ít văn thần, những người này cho dù nước có nạn ngập đầu, chỉ sợ ôm lòng bài trừ dị kỷ, ngay cả Phạm đại nhân cũng bị bọn họ ép ra khỏi kinh thành, huống hồ là Địch Thanh ta chứ? Lần này loạn Lĩnh Nam, nếu là thanh thế kinh người, quấy nhiễu giang sơn Đại Tống, bọn họ mới không thể không cần ta. Nếu là thanh thế dần tắt, cái này đối với đám người đó mà nói, là cơ hội lập công, nhất định sẽ không cần Địch Thanh ta lãnh quân rồi.

Nhưng hắn là Địch Thanh, loạn Lĩnh Nam lần này đã quấy nhiễu thiên hạ, hắn không chết, thì hắn nhất định phải trở về.

Nhưng những lời nói này, Địch Thanh lại không muốn nói với ông già Lưu, không ngờ ông già Lưu nói:

- Địch tướng quân, có phải trong triều có gian thần nói xấu ngài. Lúc này triều định không trọng dụng ngài nữa phải không?

Địch Thanh ngẩn ra, hỏi:

- Tại sao nói như vậy?

Ông già Lưu thở dài nói:

- Triều đình này biến pháp vốn là tốt, nhưng nghe nói kẻ gian không quan tâm tới lợi ích thiên hạ, ép Phạm công, đám người Phú Bật trung thành vì nước, phá hoại biến pháp. Mà Địch tướng quân ngài và Phạm công qua lại, nổi tiếng thiên hạ. Bọn họ nếu có thể ép Phạm công, nhất định cũng tiến hành chèn ép ngài.

Địch Thanh ngược lại không ngờ ông già Lưu nhìn lại thấy đáo, trong lòng thầm nghĩ:

"Có đại thần nhìn ta chướng mắt cũng không sao, chỉ không biết Triệu Trinh nghĩ thế nào thôi?"

Hắn dùng qua rượu và thức ăn, nhớ tới Quách Quỳ, cáo biệt ông già Lưu. Sau khi tới con phố dài, thấy pháo hoa bộn bề, xuyên qua màn đêm nhìn về hướng Lý Dụng Hòa bỏ đi, đã không thấy bóng người.

Địch Thanh trong lòng có chút kỳ quái, thầm nghĩ Lý Dụng Hòa nói thế nào cũng là quốc cữu, làm sao có thể sa sút như vậy? Lý Thuận Dung đã chết nhiều năm rồi, cho dù Lý Dụng Hòa và tỷ tỷ tỷ đệ tình thâm, theo lý mà nói thương tâm cũng nên nhạt rồi. Nhưng hôm nay vừa gặp, hình như y đối với cái chết của Lý Thuận Dung có chút... canh cánh trong lòng?

Lắc đầu, Địch Thanh quay lại Quách phủ, thấy Quách Quỳ vẫn chưa trở về, hơi chau mày, lúc chờ nghiêng tựa vào cạnh giường, ngủ đi lúc nào không hay.

Một đêm không nói, ngày hôm sau khi Địch Thanh mở mắt, thấy sắc trời trắng bệch, Quách Quỳ vẫn chưa trở về, ngược lại có chút lo lắng. Quách Quỳ nếu đã biết hắn muốn đến, không có lý không đợi hắn. Lúc này Quách Quỳ thủy chung chưa về, chẳng lẽ là xảy ra chuyện. Nhưng Quách Quỳ xưa nay qua lại một mình, Quách phủ này cô tịch không người, duy nhất một quản gia già cũng không biết đi đâu, hắn muốn hỏi, cũng không biết đi đâu hỏi.

Chậm rãi đứng dậy, Địch Thanh lại đi ra Quách phủ, lững thững ở đầu đường Biện Kinh.

Biện Kinh an bình nhiều năm, vẫn như thành thị không bóng tối, lúc sáng sớm đã có người buôn bán thức dậy mua bán la hét, thật là náo nhiệt. Địch Thanh đi tới đầu phố, trong lòng thầm nghĩ:

"Ta lần này về kinh thành, xem như là không có thánh chỉ, tự về kinh thành, nếu muốn truy cứu, có lẽ có lỗi, nhưng ta từ lâu không để trong lòng. Ta vốn muốn tìm Quách Quỳ hỏi chuyện Lĩnh Nam, nếu là cấp bách lại cần Địch Thanh ta, Địch Thanh ta lãnh binh giải cứu bá tính khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng là nghĩa bất dung từ. Nhưng nếu không cấp bách, ta có thể sẽ từ quan, từ nay về sau không bao giờ quay về kinh thành nữa. Thiên hạ vô sự, Địch Thanh ta ở lại kinh thành cũng không có tác dụng gì? Bây giờ ta chỉ có một nguyện vọng, chính là Quách đại ca bọn họ có thể trở lại Hương Ba Lạp, nếu có thể cứu được Vũ Thường, Địch Thanh ta cùng ở với cô ấy, không lo trần thế nữa. Nhưng...

Nghĩ đến đây, cứng rắn không nghĩ thêm nữa.

Hắn căn bản không dám nghĩ nếu như không cứu được Vũ Thường thì sẽ thế nào.

Lúc này một tiếng chiêng vang lên, đánh thức một giấc mộng nhiều năm của Địch Thanh, thì nghe phía xa có bá tính kêu ầm:

- Môn sinh Thiên tử dạo phố.

Nhanh theo sau chính là tiếng "phần phật" vang lên, có vô số bá tính đi tới xem náo nhiệt.

*****

Lúc này Địch Thanh mới phát giác, thì ra bất tri bất giác lại đi tới gần Đại Tướng Quốc Tự.

Nhiều năm trước, chính là trước Đại Tướng Quốc Tự này, hắn gặp được Vũ Thường.

Ngàn hoa vẫn như cười phong trần, người đã không còn nhan sắc đỏ thắm thay đổi...

Đang lúc nhớ lại, nghe thấy bên cạnh không xa có người nói:

- Con trai, sau này con phải đọc sách, chớ học người đó đi làm lính. Nếu con làm lính, đời này sẽ hủy hoại.

Địch Thanh cảm giác lời nói đó đã từng nghe qua, quay đầu nhìn, nhìn thấy một phụ nữ đang lén lén nhìn hắn, đang dạy đứa con bướng bỉnh bên cạnh.

Địch Thanh chua xót cười, nhớ tới nhiều năm trước, cũng từng có cảnh tượng như vậy:

- Nam như chớ làm lính, làm lính sai cả cuộc đời. Quan niệm này thì ra mấy năm nay không thay đổi.

Không ngờ đứa bé kia đứng thẳng sống lưng, to tiếng nói:

- Làm lính có gì không đúng? Giống như Địch tướng quân vậy đó, người thiên hạ kính ngưỡng, so với những người đọc sách đó mạnh hơn rất nhiều. Nước có nạn ngập đầu, thơ từ có thể cứu nước không? Nếu có lựa chọn, con càng muốn làm giống như Địch tướng quân.

Nó nói vang dội, xung quanh có không ít người nhìn qua, lại không có tiếng phản bác.

Người phụ nữ đó ngơ ngẩn, sau một hồi lâu mới nói:

- Con trai ngốc, con làm gì có bản lĩnh như Địch tướng quân chứ. Dưới thiên hạ này, có mấy Địch tướng quân?

Mũ quan che phủ kinh hoa, người đây đã đã rơi lệ!

Địch Thanh bình tĩnh đi ra mấy bước, trong lòng xúc động thật lâu. Đột nhiên nghĩ, người đời đối với Địch Thanh ta hoặc khen hoặc chê, miệng đời không giống nhau, nhưng chỉ có Vũ Thương mới đối với ta trước sau không thay đổi. Năm đó tuy Địch Thanh ta chỉ là một cấm quân bình thường nhưng nàng vẫn thích ta.

Vừa nghĩ đến đây, thấy hồng trần như trước, bên tai mơ hồ có tiếng đàn hỗn loạn, sống mũi Địch Thanh không kìm được chua xót, xuyên qua hồng trần như cũ đó, thấy đầu đường mơ hồ có một thiếu nữ áo trắng...

Tươi cười nhìn quanh, ngôn ngữ oanh yến.

- Vũ Thường, nàng không hề nhìn nhầm ta, Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Địch Thanh đã là anh hùng thiên hạ vo song, nhưng nàng có thể nhìn thấy không?

Vừa nghĩ tới Vũ Thường có thể cũng không thấy nữa. Hắn không thấy Vũ Thường, Vũ Thường cũng không thấy được Địch Thanh hắn nổi tiếng thiên hạ, mi mắt lại có chút ươn ướt, chỉ là nghĩ:

- Vũ Thường, nàng có biết mấy năm nay, ta không có một ngày không nhớ nàng.

Tất cả vốn chưa từng thay đổi.

- Địch đại ca...

Có người hô một tiếng.

Địch Thanh chấn động, nhanh chóng nghe ra tiếng của người đàn ông đó, quay đầu nhìn qua, chỉ nhìn thấy đầu kia của con phố dài, có người sải bước đi đến.

Địch Thanh hơi vui, qua đón:

- Quách Quỳ, đệ đi đâu vậy?

Người đến chính là Quách Quỳ, hai người gặp nhau trên phố, bốn tay nắm chặt, trong lòng đều vui mừng khôn xiết.

Trên phố thị có người nhận ra Quách Quỳ, thấp giọng nói:

- Đó chính là tiểu Quách tướng quân đó. Năm đó đại Quách tướng quân tung hoành Tam Xuyên Khẩu, giết mười mấy vạn quân Hạ quăng mũ cởi giáp. Tiểu Quách Quỳ càng là đại phá kỵ binh Thiết diêu Tử lợi hại nhất quân Hạ, cũng không kém gì đại Quách tướng quân.

Danh tiếng của huynh đệ Quách thị ở kinh thành cũng tuyệt đối không nhỏ. Đám bá tính gọi Quách Tuân là đại Quách tướng quân, gọi Quách Quỳ là tiểu Quách tướng quân, nhưng sự yêu quý trong đó cũng giống nhau.

Lại có người hỏi:

- Có thể để tiểu Quách tướng quân gọi một tiếng Địch đại ca là ai?

Có người rung giọng nói:

- Còn phải hỏi, đương nhiên là Địch Thanh Địch tướng quân rồi, Địch tướng quân về tới kinh thành rồi.

Địch tướng quân về tới kinh thành rồi!

Câu nói này truyền mười, mười truyền trăm, nhanh chóng truyền khắp xung quanh chùa Đại Tướng Quốc, cả phố xá ồn ào náo nhiệt, rồi sau đó im tĩnh lại. Có bá tính xông đến hướng này, như gợn sóng tới Địch Thanh, bên cạnh hai người Quách Quỳ, chỉ trỏ nói:

- Xem, đó chính là Địch tướng quân.

Tuy có nhiều người biết Địch Thanh, nhưng Địch Thanh quanh năm ở bên ngoài, số người chỉ nghe sự tích của Địch Thanh, chưa từng có thấy qua Địch Thanh còn nhiều hơn.

Nhìn thấy còn muốn nhìn lại, không nhìn thấy đánh vỡ đầu cùng muốn đến nhìn Địch Thanh một lần.

Loại anh hùng hào kiệt này, vốn là người mà bá tính muốn nhìn thấy nhất.

Thế là người vòng bên ngoài muốn chen lấn, muốn nhìn Địch Thanh thiên hạ vô song rốt cuộc là hình dáng thế nào. Người chen tới vòng trong nhưng chen giữ đứng vững bên ngoài, chỉ sợ đám người chen tới Địch Thanh. Đại Tướng Quốc Tự ồn ào náo nhiệt một trận, bá tính tranh nhau đến xem, lại không có ai đi xem môn sinh Thiên tử dạo phố nữa.

Những môn sinh Thiên tử đó ngơ ngác nhìn nhau, chưa từng nghĩ tới sẽ chịu lạnh nhạt thế này, khó tránh biểu tình kỳ dị. Có hâm mộ, có ghen tị, có người cũng đi tới xem Địch Thanh, có người lại làm ra ý khinh thường.

Địch Thanh, Quách Quỳ chưa từng nghĩ việc hai người gặp nhau lại có chấn động như vậy. Quách Quỳ vốn có muôn vàn lời muốn nói, nhưng lúc này hoàn toàn không thể nói được gì, đảo mắt, hướng về đám người thất thanh nói:

- Các vị xin nghe ta một lời.

Y lớn tiếng hô, bá tính lập tức im lặng xuống.

Quách Quỳ thấy thế, cười nói:

- Ta biết các vị đều muốn đến gặp Địch tướng quân, chứ không phải muốn gặp Quách Quỳ ta.

Đám bá tính cười thiện ý, không khí hơi có chút buông lỏng, Quách Quỳ lại nói:

- Địch tướng quân vừa mới về kinh thành, hành trình mệt mỏi, lúc này còn phải thương nghị quốc sự. Các vị hương thân phụ lão muốn xem, còn có rất nhiều cơ hội, lúc này vẫn xin lấy quốc sự làm trọng, để Địch tướng quân vào cung diện thánh, thế nào?

Mọi người nghe vậy, đều là tự giác lắch mình bên đường, nhường con đường thông tới hoàng cung.

Địch Thanh cũng không nhiều lời, chỉ là chắp tay, mới đi mấy bước, thì nghe trong bá tính có người hô:

- Địch tướng quân, lần này chính là ngài đích thân lãnh quân bình định loạn Lĩnh Nam phải không?

Thì ra Mã Chí Thư làm loạn Lĩnh Nam, làm khói lửa mãnh liệt, đều có tin tức truyền tới kinh thành, càng có bá tính Kinh Hồ; Lĩnh Nam trên đường chạy nạn tới kinh thành, bốn phía phủ đầy, bá tính trong lòng hoang mang, cảm cảm giác giang sơn muốn đổ sụp.

Mà tướng quân có thể giữ gìn giang sơn Đại Tống, chỉ có một Địch Thanh!

Dân chúng trầm lặng, nhưng vạn mắt nhìn, chỉ nhìn Địch Thanh, yên lặng chờ câu trả lời của hắn.

Địch Thanh trầm lặng chốc lát, hướng về bá tính nhẹ thi lễ, trầm giọng nói:

- Địch Thanh vốn là người luyện võ, xuất thân binh nghiệp, được hương thân phụ lão nâng đỡ, vô cùng cảm kích. Bây giờ nước đang gặp lâm nguy, sẽ cúc cung tận tụy.

Mọi người vừa nghe, cũng không biết ý của lời Địch Thanh nói, lại giống như có được cam đoan, hoan hô nhảy nhót.

Nhưng Địch Thanh đã cùng Quách Quỳ đi về hướng hoàng cung, bá tính nhìn theo Địch Thanh, nhưng không chen chúc đi theo nữa. Địch Thanh mới ra khỏi đám đông, thì nghe bên cạnh có người khinh miệt nói:

- Một xích lão hèn mọn, nở mày nở mặt vậy à?

Địch Thanh hơi chấn động, ngẩng đầu nhìn qua, chỉ nhìn thấy lời nói là từ trong kiệu truyền ra. Quách Quỳ nghe vậy giận dữ, muốn xông tới, bị Địch Thanh, giữ lại.

Thì ra vùng gần Biện Kinh đối với binh sĩ khắc chữ gọi là xích lão, ý rất khinh thường sỉ nhục. Lúc này Địch Thanh đã ở Tam nha, người đó gọi Địch Thanh là xích lão, đương nhiên có ý làm nhục.

Giọng của người đó nói hơi nhỏ, nhưng Địch Thanh, Quách Quỳ đều là hạng người tai thính mắt tinh, nghe rõ ràng.

Địch Thanh chăm chú nhìn cỗ kiệu, trong đầu đột nhiên nghĩ ra đêm giông tố đó.

Đêm đó, người con gái như lông vũ như cầu vòng đó, vì không muốn nhìn thấy hắn bị người ta xem thường làm nhục, liền thả người nhảy xuống từ trên lầu Hoàng Nghi Môn cao cao đó.

Khuôn mặt Dương Vũ Thường lại hiện trước mặt:

- Địch Thanh, chàng ở trong lòng thiếp... vốn là thiên hạ vô song, anh hùng cái thế, làm sao có thể chịu... khinh thường của những người đó.

Địch Thanh hắn đánh khắp thiên hạ, lấy chiến công thăng chức, trong mắt một số người, thì ra vẫn chỉ là một xích lão. Vừa nghĩ tới đây, Địch Thanh ngược lại mỉm cười, thản nhiên hỏi:

- Vẫn không biết trong kiệu là vị đại nhân nào?

Quách Quỳ đã thấp giọng nói:

- Là kiệu của lưỡng phủ Hạ Tủng, trong kiệu chắc chắn là Hạ Tủng rồi.

Thì ra năm đó Hạ Tủng không vào được Xu Mật viện, nhưng mấy lần thượng tấu, cuối cùng đá đi được đám người Thạch Giới, Phạm Trọng Yêm, vừa báo thù bị nhục năm đó. Hôm nay tuy chưa vào được Xu Mật viện, nhưng lại được vào Trung thư tỉnh làm Tể tướng.

Trong kiệu chính là Hạ Tủng.

Thì ra hôm nay lão vội đi lâm triều, lúc qua chỗ này, đột nhiên đầu người chen lấn khiến lão không thể đi quan được. Lão hỏi ra mới biết là Địch Thanh ở đây, không kìm được vừa đố kỵ vừa hận. Hạ Tủng vốn là người có thù tất báo, càng biết Địch Thanh, Phạm Trọng Yêm là bạn tốt, thấy Địch Thanh nở mày nở mặt như vậy, khó tránh nói lời châm chọc. Nghe Địch Thanh hỏi, nghe được Quách Quỳ trả lời, Hạ Tủng chỉ là hừ lạnh một tiếng, cũng không nhiều lời, trong lòng thầm nghĩ. Cùng với hạng người đê tiện thấp hèn này, có gì tốt mà nói?

Địch Thanh không nghe Hạ Tủng mở miệng, lại nói:

- Không biết Hạ đại nhân có thể nói lại lời nói lúc nãy một lần nữa không?

Hạ Tủng kéo màn kiệu nhìn thấy Địch Thanh đang lạnh lùng nhìn mình, biết Địch Thanh dũng mãnh, trong lòng hơi lạnh. Nhưng nghĩ lại, đây là Kinh Sư, Địch Thanh còn dám vì một câu nói động thủ không thành, liền nói:

- Ta nói một xích lão hèn mọn, cũng nở mày nở mặt như vậy đấy.

*****

Hai tròng mắt Quách Quỳ nổi lửa, Địch Thanh đột nhiên mỉm cười, từng chữ một nói:

- Được, Hạ đại nhân nhớ lời nói hôm nay, Địch Thanh cáo từ.

Hạ Tủng vốn cho rằng Địch Thanh sẽ động thủ, thầm nghĩ chỉ cần Địch Thanh động thủ, thì cáo hắn tội ấu đả mệnh quan triều đình, nào ngờ Địch Thanh xoay người bỏ đi, trong lòng thầm nghĩ:

"Địch Thanh ngươi xem ra là thông minh, cho dù là Phạm Trọng Yêm, cũng đấu không nổi ta, một Địch Thanh như ngươi, nếu dám chọc ta, tự chuốc lấy khổ."

Địch Thanh gần tới hướng hoàng cung, đột nhiên dừng lại nói:

- Tiểu Quỳ, về phủ đi.

Quách Quỳ vốn là hận không thể bắt Hạ Tủng đánh một trận, nghe vậy ngơ ngẩn, nói:

- Về phủ? Thánh Thượng nghe nói đại ca về rồi, rất vui mừng, cùng đệ thương nghị một đêm chuyện làm thế nào thảo phạt Lĩnh Nam. Hôm nay ông ấy bảo đệ nếu gặp được đại ca, thì mời đại ca lập tức vào cung thương nghị chuyện bình định Lĩnh Nam.

Địch Thanh chậm rãi lắc đầu:

- Bây giờ không phải lúc thương nghị, đệ nghe ta được rồi.

Quách Quỳ có chút sững sờ, nhưng vẫn nghe theo ý của Địch Thanh, hai người trở về Quách phủ. Sau khi Địch Thanh về tới quý phủ, đầu tiên từ trong lòng ngực móc ra bức thư giao cho Quách Quỳ nói:

- Đây là thư của đại ca đệ cho đệ, đại ca nói đệ xem xong thư này, chớ để lộ ra, cũng không được nói chuyện của đại ca... đệ... xem như đại ca chết rồi thì được rồi.

Địch Thanh cũng không biết nội dung bức thư, chỉ nghĩ Quách Tuân đích thân nhờ hắn giao thư cho Quách Quỳ, rõ ràng nội dung trong thư đối với Quách Quỳ khá quan trọng.

Quách Quỳ tuy sớm biết tin Quách Tuân chưa chết từ miệng của Hàn Tiếu, nhưng vẫn khó mà tin được. Nhận lấy thư, nhìn thấy mấy chữ trên bức thư chính là bút tích của đại ca, kích động vô cùng.

Địch Thanh lại lên giường kéo chăn trùm kín người, nói với Quách Quỳ:

- Nếu có người tìm ta, đệ cứ bảo ta bệnh rồi.

Quách Quỳ gật đầu, sau đó ra khỏi phòng, trong lòng nghĩ rằng:

"Chẳng lẽ Địch đại ca vì tức giận lời nói đó của Hạ Tủng, lúc này mới lấy bệnh làm cớ, không muốn lãnh quân? Nhưng Địch đại ca chắc chắn sẽ không lấy quốc gia đại sự ra đùa giỡn."

Ngồi ở trong viện, Quách Quỳ mở bức thư của đại ca, tâm tình kích động, lại rất là kỳ quái. Thầm nghĩ đại ca nếu đã không chết, vậy thì trở về được rồi, tại sao không về kinh thành nữa chứ?

Quách Quỳ tràn đầy khó hiểu, mở thư ra, mới chỉ đọc một chút, sắc mặt thay đổi, đợi sau khi xem thư xong, thần sắc hoảng hốt, nhẹ buông tay, bức thư đó đã rơi xuống đất. Gió vừa thổi, Quách Quỳ phục hồi lại tinh thần, vội nhặt thư lên, để ngay ngắn trong ngực. Sau đó ngây người ngồi trong đình viện, sắc mặt biến đổi không ngừng.

Giữa trưa, có tiếng bước chân dồn dập từ ngoài phủ truyền đến, Quách Quỳ ngẩng đầu nhìn, nhìn thấy Diêm Sĩ Lương dẫn theo mấy nhân cung vào trong, nhìn thấy Quách Quỳ, hô:

- Quách Quỳ, sau ngài còn ở đây? Địch tướng quân đâu? Thánh Thượng muốn các ngươi vào cung ngay, đã đợi các người nửaa ngày rồi.

Quách Quỳ chậm rãi đứng dậy, lộ ra vẻ khó xử:

- Địch... nhị ca, nhị ca bệnh rồi.

- Bệnh rồi? sao ông ấy bệnh lúc này? Sao ông ấy có thể bệnh chứ?

Diêm Sĩ Lương liên tục hỏi ba câu, cực kỳ nghi ngờ.

Quách Quỳ tức giận trong lòng, nói:

- Nhị ca là thần tiên sao? Nhị ca không thể bệnh sao?

Diêm Sĩ Lương giật mình nảy người, lùi lại sau mấy bước, cảm giác mình nói có chút vấn đề, cũng lấy làm lạ tại sao Quách Quỳ nổi nóng, vội cười giảng hòa nói:

- Ta không phải là ý này, ta nghe Hạ tướng nói ông ấy mới gặp được Địch tướng quân, lúc đó Địch tướng vẫn vẫn khỏe mà?

Quách Quý lạnh lùng nói:

- Rất nhiều chuyện khó nói.

Diêm Sĩ Lương trong lòng không vui, cảm giác Quách Quỳ và hôm qua có chút khác, nhưng sự việc khẩn cấp, vẫn xin Quách Quỳ dẫn gã đi gặp Địch Thanh trước. Đợi vào phòng, Diêm Sĩ Lương thấy Địch Thanh ban ngày nằm trên giường, cũng có chút hoảng hốt, hỏi ngắn hỏi dài. Địch Thanh giống như hôn mê, chỉ nhẹ tiếng nói câu rất mệt, sau đó im miệng không nói.

Diêm Sĩ Lương thấy thế, thầm nghĩ không thể khiêng Địch Thanh tới đại nội, ra phòng, nói với Quách Quỳ:

- Quách Quỳ, làm sao bây giờ?

Thần sắc gã rất là sốt ruột, nhất thời không có chủ ý.

Thì ra lúc Triệu Trinh lâm triều, thì cùng văn võ thương nghị chuyện làm thế nào bình định Mã Chí Thư làm loạn. Địch Thanh trở về kinh thành, sớm đồn tới tai cấm quân kinh thành, lại truyền tới đại nội. Triệu Trinh vừa nghe, tinh thần phấn chấn, thầm nghĩ theo tính cách của Địch Thanh, hơn phân nửa rất nhanh sẽ vào cung kiến giá, do đó bắt đầu cùng văn võ bá quan thương nghị quốc sự, thuận tiện đợi Địch Thanh vào cung.

Không ngờ đợi lâu, Địch Thanh không thấy bóng dáng, Triệu Trinh khó hiểu, vội lệnh Diêm Sĩ Lương tới tìm Quách Quỳ hỏi tình hình.

Quách Quỳ nghe Diêm Sĩ Lương hỏi, nói:

- Cái gì làm thế nào? Nói với Thánh Thượng là Địch Thanh bị bệnh là được rồi.

Diêm Sĩ Lương vội nói:

- Ngài nói nghe dễ dàng quá, lúc này chiến hỏa sắp đốt tới kinh thành rồi, không có Địch tướng quân làm thế nào chứ? Ngài theo ta vào cung giải thích.

Gã không nói nữa, kéo Quách Quỳ ra khỏi Quách phủ, thẳng tới đại nội.

Địch Thanh đợi cửa viện đóng kín, lúc này mới ngồi dậy dựa vào bên giường, khóe miệng nở nụ cười.

Hắn ngồi trên giường, vẫn chờ tới lúc hòang hôn mặt trời xuống núi, Quách Quỳ lúc này mới trở về. Sau khi Quách Quỳ vào phòng, bưng đồ ăn đặt lên bàn, còn cầm đến hai vò rượu.

Địch Thanh cho rằng Quách Quỳ sẽ nói những gì, Quách Quỳ lại không nói gì, cũng không nói tới triều đình thế nào, chỉ nói:

- Địch nhị ca, hôm nay đệ cùng nhị ca... có lẽ nói, nhị ca uống cùng đệ, không say không về, thế nào?

Địch Thanh hơi kinh ngạc, cảm giác được Quách Quỳ có chút khác thường, nhưng cuối cùng cũng không hỏi gì. Hai người đều tự nâng vò rượu uống rượu âm thanh buồn bực, đợi sau khi hai vò rượu uống cạn, Quách Quỳ lại đi ra ôm hai vò đến.

Hai người uống tới nữa đêm, Quách Quỳ đã có chút say mèm, dưới ngọn đèn dầu, con mắt say lờ đờ lim dim, đột nhiên nhìn về hướng Địch Thanh nói:

- Địch nhị ca, đệ đều biết hết rồi, thì ra... ôi.

Y thở dài một tiếng, không nói thêm nữa, lại uống nữa vò rượu, đã mơ màng ngủ.

Địch Thanh thấy thế, trong lòng lấy làm kỳ lạ. Thầm nghĩ Quách Quỳ ban ngày không phải thế này, tại sao sau khi từ trong cung trở về thì trầm lặng rất nhiều chứ? Chẳng lẽ trong cung, Triệu Trinh làm Quách Quỳ chịu uất ức? Nhưng cảm giác lại không giống, thấy Quách Qùy xiêu vẹo trên ghế trượt xuống, ngồi xuống đất, Địch Thanh thầm tự lắc đầu, đỡ y dậy, đặt y lên giường cho yên ổn.

Lúc đỡ Quách Quỳ, chạm trúng bức thư trong lòng ngực của y, đột nhiên nghĩ tới, Quách đại ca viết cho tiểu Quỳ một bức thư, là y sau khi xem thư trở nên thế này hay sao?

Cuối cùng không kìm được kích động, Địch Thanh chỉ là đi cởi giày cho Quách Quỳ, đắp chăn. Sau đó ngồi cạnh bàn uống rượu, nghĩ ngợi tâm sự, qua một hồi, cũng tựa vào bàn ngủ.

Ngày thứ hai Quách Quỳ tỉnh lại, cũng không nói lời nào, thì ra ngoài mua thức ăn mang về cho Địch Thanh, sau đó rời khỏi Quách phủ. Địch Thanh giả bệnh, vẫn không ra Quách phủ, đợi tới lúc hoàng hôn, nghe có tiếng bước chân tới trước cửa, gõ hai cái.

Địch Thanh biết người đó tuyệt không phải là Quách Quỳ, lại lấy làm lạ lúc này có thể ai tới, thấp giọng nói:

- Mời vào.

Cửa phòng mở ra, Địch Thanh ngẩng ra, xuống giường, đứng dậy thi lễ:

- Bàng đại nhân, sao ngài đến đây?

Đi vào chính là Bàng Tịch.

Bàng Tịch nhìn thấy Địch Thanh, trên mặt lộ ra phần mỉm cười, nhìn xung quanh, thấy căn phòng hơi lộn xộn, nhẹ thở dài, ngồi xuống, nói vào vấn đề chính:

- Địch Thanh, ngài xưa nay trầm ổn cận thận, lần này, tại sao phải gây sự chứ?

Địch Thanh cũng ngồi xuống theo, lạnh lùng nói:

- Nếu ta đau bệnh trong phòng, uống rượu giải sầu cũng cho là gây chuyện. Thiên hạ to lớn, đã không có chỗ đứng của Địch Thanh ta.

Bàng Tịch hơi ngừng lại, hồi lâu mới nói:

- Ngài nặng lời rồi. Chuyển đề tài, Bàng Tịch nói:

- Hôm qua Quách Quỳ đã nói rõ hiểu lầm của ngài và Hạ tướng với Thánh Thượng. Quách Quỳ nói ngài vì bị khinh thường mà bệnh, Thánh Thượng nghe xong lệnh Hạ Tủng nội trong ba ngày, phải tới trong phủ của ngài bồi lễ tạ lỗi. Địch Thanh, hôm nay để lại một đường, sau này gặp nhau tốt hơn, sao nhất định phải khiến Hạ Tủng xuống nước chứ? Nghe ta nói một câu, lấy quốc sự làm trọng, chuyện này, bỏ qua đi, được không?

Bàng Tịch tuy thấy bất bình cho Địch Thanh, nhưng lần này đến, ngược lại cũng ôm thái độ bảo Địch Thanh dàn xếp ổn thỏa.

Địch Thanh thản nhiên cười:

- Bỏ qua? Hạ Tủng không đến, sao có thể bỏ?

Bàng Tịch khó xử nói:

- Địch Thanh, ngài cần gì phải tự chuốc lấy khổ, ngài xưa nay nhìn đại cuộc, tại sao cố chấp cơ chứ?

Lúc lão nói ra câu nói này, cảm giác được hữu tâm vô lực.

Lão cảm giác được mệt rồi, cũng cảm giác được già rồi, nếu là mười năm trước, Bàng Tịch lão cũng sẽ không khuyên Địch Thanh như vậy.

Có phải vì người già, suy nghĩ nhiều không?

Địch Thanh bỗng nhiên đứng lên, môt nắm tay định vỗ lên bàn, thấy Bàng Tịch hoảng hốt, một nắm tay đó cuối cùng từ từ đặt xuống, xoay người nhìn ra ngoài cửa sổ. Lạnh lùng trong gió lạnh, tà dương theo gió mà đi, xuyên qua cửa sổ, rơi lên mặt tang thương đó.

*****

- Đúng vậy, ta xưa nay nhìn đại cuộc, đây là Phạm công dạy ta. Ông ấy nói ta không biết sách, bảo ta đọc nhiều sách, nhưng sách đọc nhiều rồi, trải qua nhiều rồi, rất nhiều chuyện ngược lại càng ngày càng không hiểu. Ta lấy đại cuộc làm trọng, năm đó ta không có giết cha con Hạ gia, khiến hơn mười ngàn anh linh quân Tống chết sạch ở Tam Xuyên Khẩu. Ta lấy đại cuộc làm trọng, cứ cố nhẫn nhịn Hàn Kỳ, Nhâm Phúc, kết quả làm cho mười mấy ngàn quân Tống chết ở Hảo Thủy Xuyên. Ta lấy đại cuộc làm trọng, đi sứ Khiết Đan, trấn thủ Hà Bắc, bỏ lại chiến cuộc Tây Bắc, kết quả trại Định Xuyên, lại chết mười mấy vạn quân Tống. Chủng Thế Hành chết ở thành Tế Yếu. Phạm Trọng Yêm lấy đại cuộc làm trọng đã bị đuổi ra kinh thành. Bỗng nhiên xoay người, ánh mặt trời chiều tàn rơi lên hai tròng mắt Địch Thanh, ánh sáng như lửa:

- Bàng đại nhân, ngài nói cho ta biết, gần trăm ngàn quân Tống chết đó, một đám anh hùng hảo hán chết ở biên thùy, vô tội bị giáng chức, nên lấy cái gì làm trọng?

Sắc mặt Bàng Tịch ảm đạm, gục đầu xuống, không có lời nào để nói.

- Đúng vậy, Địch Thanh ta là mãng phu, xuất thân binh nghiệp, ta hiểu không nhiều. Nhưng ta biết ai cũng có tính mạng và cũng chỉ có một, ai cũng không có tư cách xem thường người khác. Câu nói này năm đó ta nói với Hàn Kỳ, mấy năm nay qua rồi, ta vẫn nói câu này. Ta lấy đại cuộc làm trọng, sau khi thoát mạng trong cái chết, biết Lĩnh Nam có nạn, thì vội tới kinh thành hy vọng đóng góp sức lực. Nhưng bọn họ có phải là lấy đại cuộc làm trọng? Địch Thanh ta nhiều năm liều mạng, vết đao xông cửa, hiểu nguy khó của bá tính. Một xích lão hèn mọn, sao xứng nở mày mở mặt như vậy? Địch Thanh ta không xứng, bọn họ có thể xứng?

Bàng Tịch thân hình run rẩy, muốn nói gì, nhưng cuối cùng trở thành một tiếng thở dài.

Địch Thanh càng nói càng xúc động phẫn nộ, nhìn chằm chằm Bàng Tịch nói:

- Bàng đại nhân, ta nghe nói lần này Lĩnh Nam có loạn, đầu tiên ngài tiến cử Địch Thanh ra xuất chiến, ta đa tạ coi trọng của ngài. Nhưng nếu ta dẫn binh xuất chiến, nhưng binh lính đó nếu hỏi ta, Địch Thanh, ngươi cho dù thân ở vị trí cao, ở trong mắt người khác, cũng chỉ là một xích lão, vậy bọn họ quên cả sống chết, chuyến đi này có thể sẽ không quay về nữa, cũng không gặp được cha mẹ nữa, cũng không gặp được vợ con nữa, cũng không gặp được huynh đệ nữa. Bọn họ ở trong mắt người khác, vì cái gì, chẳng lẽ vì danh hiệu xích lão? Bàng đại nhân, ngài đọc sách nhiều, ngài nói mới tốt, ngài có thể nói cho bọn họ biết, rốt cuộc bọn họ vì cái gì không?

Bàng Tịch chậm rãi đứng lên, thân hình run rẩy, sắc mặt áy náy nói:

- Ngài nói đúng, ta lần này không nên đến.

Địch Thanh thở dài một tiếng nói:

- Đúng vậy, ngài thật sự không nên đến, trong mắt những người không phải là xích lão kia, Địch Thanh ta không biết đối nhân xử thế, không thể lấy đại cuộc làm trọng. Nhưng ta muốn hỏi bọn họ, bọn họ cần sĩ diện, chẳng lẽ Địch Thanh ta thì không cần mặt? Được rồi, lần này, ta không biết đối nhân xử thế, đại cuộc của bọn họ là bảo vệ vinh hoa phú quý, giữ giang sơn kiên cố, nếu bọn họ thích, tự mình đi bình loạn. Đại cuộc của Địch Thanh chính là một người, đó chính là Dương Vũ Thường. Năm đó cô ấy nói với ta, Địch Thanh không nên chịu khinh thường của những người đó. Địch Thanh ta có thể không có gì cả, Địch Thanh ta có thể chết, nhưng ta đã hứa với Dương Vũ Thường, đời này sẽ không bị khinh thường của người khác. Cho dù ta ngày mai có bị giáng chức, cho dù ta bị xâm chữ ba ngàn dặm, cho dù có đao kề lên cổ ta, nếu ta không thấy Hạ Tủng nhận lỗi với ta, ta sẽ không lĩnh quân.

Bàng Tịch gật đầu, thắt lưng hơi có uốn lượn, tựa hồ cũng không chịu nổi gánh nặng, sau một hồi, lão mới nói:

- Ta biết rồi, ngài nói đúng, sai thì sai rồi, tìm bao nhiên lý do cũng là sai rồi. Sai thì sai rồi, sai lầm nhất định muốn người phạm sai bù đắp lại mới được.

Lão nhìn Địch Thanh rất lâu, vừa gật đầu, vừa chậm rãi đóng cửa.

Địch Thanh một lời phẫn nộ phát tiết ra ngoài, cả người đột nhiên trống rỗng, chậm rãi ngoài xuống, khóe miệng mỉm cười:

- Nhưng ai chịu nhận mình sai rồi chứ?

Địch Thanh ngơ ngẩn trong phòng, Quách Quỳ đẩy cửa đi tới, trong tay còn cầm hai vò rượu. Lúc này Quách Quỳ ở ngoài phòng, đã nghe thấy tất cả, y giống như có ngàn lời muốn nói, nhưng y chỉ là nói:

- Địch đại ca, đệ uống với đại ca được chứ?

Địch Thanh gật đầu, cầm lấy vò rượu đó uống mấy ngụm, chỉ cảm giác trong miệng đầy là mùi vị chua xót đau khổ.

Hai người uống rượu buồn, tới lúc tối khuya, Quách Quỳ lại mắt say lơ đờ, đột nhiên ngoài phòng có người gõ cửa.

Quách phủ cũng không có đồ gì để trộm, hơn nữa bá tính láng giềng đều rất kính trọng Quách gia. Quách Quỳ sơ ý khinh suất, cửa sân xưa nay khép hờ, người đến rõ ràng từ cửa sân thẳng vào tới trước phòng.

Địch Thanh, Quách Quỳ nhìn nhau, đều nhận ra nghi hoặc của đôi bên.

Bàn Tịch đều đến rồi, lúc này, còn có thể có ai đến đây? Chẳng lẽ Hạ Tủng đến nhận sai? Nhưng con người Hạ Tủng như vậy, chỉ sợ đánh chết cũng sẽ không nhận sai với Địch Thanh, bằng không sau này lão làm sao có thể ngẩng đầu trước mặt bá quan văn võ?

Địch Thanh thấy Quách Quỳ đã có tám phần say, chỉ có thể tự mình đứng lên tới trước cửa, mở cửa phòng ra.

Một vệt ánh trăng chiếu xuống, rơi lên mặt người đó trước phòng, Địch Thanh thấy rồi, giật mình kinh hãi, thất thanh nói:

- Thánh Thượng?

Người trước mặt đó, trong thần sắc nghiêm trang có lo lắng, ẩn có uy nghiêm vô thượng, rõ ràng là Triệu Trinh Thiên tử Đại Tống.

Địch Thanh chưa từng nghĩ tới, Triệu Trinh lại đích thân tới Quách phủ!

Ánh trăng trong trẻo lạnh lùng, như ngân hà chân trời rơi vào giữa hai người.

Thần sắc Triệu Trinh phức tạp, thấy Địch Thanh định thi lễ, nói:

- Miễn đi.

Y thấy trong phòng đầy là mùi rượu, chau mày nói:

- Địch Thanh, khanh tới trong viện nói chuyện với trẫm, không biết ý khanh thế nào.

Triệu Trinh khách khí như vậy, Địch Thanh ngược lại nhiều năm chưa từng nghe thấy, gật đầu, theo sau Triệu Trinh tới viện đình. Thấy Diêm Sĩ Lương đứng chỗ cửa viện, còn cẩn thận nghe, thì cảm giác ngoài tường viện có không ít tiếng hít thở rất nhỏ.

Địch Thanh biết Triệu Trinh không còn giống như ngày trước, có thễ dễ dàng mạo hiểm. Lần này đến Quách phủ, không hỏi cũng biết, nhất định dẫn rất nhiều cấm quân đi theo.

Triệu Trinh thấy giữa viện định có cái bàn đá, bên cạnh có ghế, đi tới ngồi xuống, ra hiệuĐịch Thanh cũng ngồi.

Địch Thanh vốn đang nhún nhường, suy nghĩ, giây lát cũng ngồi trước mặt Triệu Trinh.

Trong mắt Triệu Trinh có phần cảm thán, chậm rãi nói:

- Địch Thanh, chúng ta đã rất lâu không gặp rồi. Từ lần trước về kinh, Trương mỹ nhân bỗng dưng trúng độc, Địch Thanh đi sứ Khiết Đan, trong nháy mắt, đã qua mấy năm rồi.

Địch Thanh ngược lại biết, Trương mỹ nhân không có chết, nhưng vẫn là bệnh nặng không khỏi. Hắn là hỏi lòng không thẹn, đối với chuyện Trương mỹ nhân trúng độc, cũng có chút khó mà tưởng tượng. Hắn càng khó tưởng tượng là hắn và Trương mỹ nhân vốn không quen biết, tại sao Trương mỹ nhân muốn ám hại hắn?

Thấy Địch Thanh trầm lặng, Triệu Trinh trầm ngâm hồi lâu mới nói:

- Thật ra trẫm... vẫn luôn xem khanh là huynh đệ. Giữa chúng ta, tuy không có minh thề uống máu, nhưng ta trẫm thấy, rất nhiền minh thệ, chỉ quý ở thành tâm, mà không ở hình thức.

Giọng nói của y rất thấp, lại không chú ý tới Quách Quỳ trong phòng lẳng lặng xuyên qua cửa sổ nhìn bọn họ, nghe thấy Triệu Trinh nói lời này, trong mắt Quách Quỳ có phần cổ quái.

Địch Thanh muốn nói chút gì, nhưng thấy Triệu Trinh không nhìn hắn, cuối cùng vẫn không nói lời nào.

- Trẫm luôn muốn làm một hoàng đế tốt, cũng luôn đang tận lực làm hoàng đế tốt.

Triệu Trinh lẩm bẩm nói:

- Nhưng trước có Thái hậu, sau có Nguyên Hạo, ngay sau đó lại đến Mã Chí Thư, trẫm tâm lực suy cạn.

Lúc y nói chuyện, đang nghĩ tình hình chiến tranh Đại Tống, lòng nóng như lửa đốt.

Chỉ là thời gian mấy ngày này, thư cầu cứu của Lĩnh Nam bay tới như tuyết rơi.

Lúc thì có hai châu bị vây, khi thì có một châu bị vây, lại có lãnh tướng bị giết, lại có tri châu đầu hàng.

Mã Chí Thư liên tiếp chiến báo thắng lợi, quân Tống mỗi lần chiến đều thua.

Nếu nói quân Tống Tây Bắc và Bắc Cương, nói thế nào cũng trải qua khảo nghiệm khói lửa chiến tranh. Quân Tống phía nam, mấy chục năm hòa bình, hoàn toàn đã quên đánh giặc như thế nào.

Khuyết điểm yếu kém của quy tắc quân đội Đại Tống sớm đã hiện ra. Cái này quả thật một lần bạo phát phát ra. Đại Tống không có cấm quân trăm vạn, binh lực đều ở Bắc Cương, Tây Bắc, quân đội vùng ven phía Nam hoàn toàn không thể chống lại Mã Chí Thư.

Hiện giờ quân đội của Mã Chí Thư thế như chẻ tre, thấy tình hình, rất có thể dẹp yên lưỡng Quảng, nuốt chửng, tư thế Kinh Hồ.

Nếu tiếp tục như vậy, không tới mấy tháng, phía nam Trường Giang phải cắm cờ xí của Mã Chí Thư.

Chẳng lẽ, Đại Tống bị Khiết Đan cắt đi Yến Vân mười sáu châu, bị nước Hạ cướp đi phía tây Hoành Sơn, bây giờ lại phải bị Mã Chí Thư chia giang sơn cai trị?

Triệu Trinh không cam lòng, nhưng không cam lòng có tác dụng gì? Quần thần bó tay, vô kế khả thi.

Mỗi lần nghĩ tới đây, Triệu Trinh đều tức giận trong lòng. Khiết Đan hiếp bức, quần thần bó tay, Nguyên Hạo xuất binh, quần thần bó tay. Bây giờ Mã Chí Thư xuất binh, quần thần vẫn bó tay. Những bá quan này là trung thần, trung thần có thể chết cùng Triệu gia y, nhưng không nghĩ làm thế nào cứu vãn.

Sau khi Lã Di Giản chết, Phạm Trọng Yêm bị trục xuất, Đại Tống lại trở lại cảnh tượng ao tù nước đọng.

Cho tới bây giờ, y vẫn chỉ có thể tin Địch Thanh.

*****

Có người đề xuất muốn điều binh Bắc Cương phòng Khiết Đan, quân Tây Bắc phòng nước Hạ đối kháng Mã Chí Thư. Nhưng hai chỗ đó trống không, Khiết Đan, nước Hạ thừa cơ mà xuống, giang sơn Đại Tống chỉ sợ nhanh chóng bị chia năm xẻ bảy...

Nghĩ đến đây, không thấy Địch Thanh trả lời, Triệu Trinh quay đầu nhìn qua, thấy Địch Thanh lại nhìn ánh trăng bên chân trời. Thiếu niên đã từng làm chuyện không kể hậu quả, thô mãng, có chút thị quái đã không thấy. Y nhìn thấy chỉ là người đàn ông tang thương, u buồn lại mang phần khó dò.

Bây giờ y đoán không ra rốt cuộc Địch Thanh nghĩ cái gì.

- Địch Thanh, khanh nhất định muốn Hạ Tủng nhận sai?

Triệu Trinh mở miệng hỏi.

Địch Thanh chỉ trả lời một chữ:

- Phải.

Hắn ép bức người, không chỉ là vì nguyên cớ của mình. Năm đó Nguyên Hạo giả tạo thư, quăng cho Hạ Tủng, Hạ Tủng nhận được, như được chí bảo. Chính là bức thư đó làm Phạm Trọng Yêm bị trục xuất ra kinh thành, làm tân pháp thất bại nữa chừng. Đối với loại thần tử này, hắn hoàn toàn không muốn nhân nhượng.

Hậu quả của nhân nhượng, càng thê thảm và nghiêm trọng!

Triệu Trinh khẽ thở dài, thần sắc thành khẩn nói:

- Thật ra trẫm nghe Quách Quỳ nói, cũng rất tức giận Hạ Tủng. Trẫm đã lệnh ông ta nội trong ba ngày xin lỗi khanh. Nhưng ông ta bệnh rồi, bệnh rất nặng, hoàn toàn không thể ngồi dậy.

Địch Thanh cười lạnh, thầm nghĩ ta bệnh lão cũng bệnh? Cho dù lão bệnh nguy kịch, trước khi chết cũng phải đến một lần.

Triệu Trinh nói:

- Trẫm vẫn không thể ép ông ta người ôm bệnh tới đây, trẫm thật sự không thể làm như vậy.

Thấy màu trăng xanh nhạt rơi lên mặt Địch Thanh, có nét lạnh lùng nói không ra. Triệu Trinh thở dài, dùng tay ý chỉ Diêm Sĩ Lương tiến lên, lấy ra tấm lệnh bài mặt thiết nhẹ đặt lên bàn, trên khảm chữ vàng.

Ánh mắt Địch Thanh xẹt qua, thấy chính giữa trên thiết bài khảm viết mấy chữ lớn:

"Tha cho chín tội chết, nếu phạm tội thường, không được gia trách."

Góc bên phải thiết bài đó viết ban cho Địch Thanh, dưới góc bên phải ghi rõ ngày tháng. Còn bên cạnh chữ lớn đó, lại viết không ít chữ nhỏ, nói rõ chỗ áp dụng thiết khoán này, nhất thời khó có thể xem hết.

Địch Thanh ngược lại biết, món đồ này tên kim thư thiết khoán!

Kim thư thiết khoán hay gọi Đan thư thiết khoán, qua nhiều thế hệ đều là lời hứa hẹn cao nhất hoàng đế ban cho thần tử. Có bằng chứng lời hứa hẹ này, Địch Thanh chỉ cần không phạm tội mưu phản, đều miễn tội chết!

Triệu Trinh nhìn thiết bài đó, thần sắc phức tạp:

- Tối qua ta suy nghĩ rất lâu, đặc biệt lệnh bọn họ làm Kim thư thiết khoán này. Địch Thanh, ta biết mấy năm nay khanh bị quản chế gia pháp tổ tông, rất là tủi uất. Trong triều sùng văn ép chế võ nhiều năm, những văn thần đó quan niện cứng nhắc theo quy cũ, nhất thời khó thay đổi. Ta nghĩ khanh là sợ sau lần này lãnh quân, nếu thắng rồi, phần lớn mọi ngươi sẽ chửi bới khanh, trẫm lấy Kim thư thiết khoán này làm chỗ dựa, tuyệt không nghi ngờ khanh. Nếu thua rồi...

Tựa như có hy vọng nhìn qua Địch Thanh, chỉ mong chờ hắn mở lời.

Cuối cùng Địch thanh mở miệng:

- Lần này xuất binh, cũng không thể thua nữa...

Triệu Trinh liên tục gật đầu, thần sắc chờ đợi, Địch Thanh lại nói:

- Đại Tống liên tiếp đánh nhiều trận, nếu thần lại bại, quân Tống tuyệt không có ý chí chiến đấu, chỉ sợ bọn bọ đánh qua Trường Giang, thẳng ép Biện Kinh, cũng là có khả năng lớn.

Sắc mặt Triệu Trinh hơi thay đổi, tay cũng có chút phát run.

Địch Thanh lại nói:

- Nếu thần xuất binh, chỉ cầu thắng, binh bại tự sát.

Triệu Trinh vội nói:

- Địch Thanh, làm gì nói ra lời như vậy chứ?

Địch Thanh lạnh lùng cười, đột nhiên nhớ tới lời nói của Vũ Anh trước khi chết, chậm rãi nói:

- Thân là võ tướng, tận trung vì nước, binh bại phải chết, không cần nhiều lời? Không nhìn Đan thư thiết khoán đó, Địch Thanh đứng lên, chỉ nhìn ánh trăng nói:

- Thánh Thượng, nếu để thần xuất binh, Địch Thanh chỉ có hai yêu cầu.

Triệu Trinh vội nói:

- Khanh cứ nói.

Địch Thanh nói:

- Thánh Thượng làm lễ gặp thần tử, để cấm quân thiên hạ biết, võ nhân đều không phải ti tiện vô đạo. Nếu không như vậy, thần chỉ sợ võ nhân lòng lạnh, khó mà tận lòng chiến đấu.

Triệu Trinh trầm lặng một lát, nói:

- Trẫm biết làm thế nào. Còn yêu cầu thứ hai?

Địch Thanh nói:

- Xưa nay triều đình lấy văn chế võ, khó tránh binh điều mất linh. Nếu thần xuất binh, nhất định phải đại quyền tổng lãnh dụng binh, người bên cạnh không được chỉ huy.

Triệu Trinh do dự hồi lâu mới nói:

- Trẫm có thể hứa với khanh.

Địch Thanh nói:

- Chỉ cần Thánh Thượng có thể làm được hai điều này, ngày mai thần lâm triều, xin lãnh quân bình nam. Về phần Kim thư thiết khoán này, Thánh Thượng thu lại đi,

Triệu Trinh vội nói:

- Khanh giữ không sao cả.

Thấy cuối cùng Địch Thanh chịu lãnh binh, Triệu Trinh trong lòng vui mừng, lại thấy sắc trời đã tối, để lại Kim thư thiết khoán, cáo từ rời đi.

Địch Thanh ngồi trong đình viện, lẳng lặng nhìn ánh trăng chân trời đó, ánh trăng cũng nhìn hắn, mãi tới khi trời sáng trắng mới đứng dậy rửa mặt, chỉnh sửa tươm tất sau đó đi vào trong cung.

Sau khi tới điện Văn Đức, văn thần đã tề tụ, có mấy văn thần thấy Địch Thanh đứng một bên, nhỏ tiếng bàn luận:

- Chỉ là một xích lão, lại ngông nghênh thế này.

Mấy ngày nay bọn họ vẫn luôn chờ Địch Thanh, không ngờ Địch Thanh mượn cớ bệnh không đến lâm triều, những người này từ lâu đã có oán hận.

Địch Thanh nghe xong, lạnh lùng cười, nhìn đám người Bàng Tịch, Âu Dương Tu xa xa nhỏ tiếng bàn luận, thỉnh thoảng nhìn về Địch Thanh, Địch Thanh cũng không để trong lòng.

Có cung nhân cung kính hô, Thiên tử giá lâm, bá quan nghiêm nghị quỳ lạy, đợi sau khi đứng lên, Triệu Trinh thấy quần thần tựa như ngàn lời vạn ngữ, lập tức nói:

- Trẫm hôm nay lâm triều, bàn chuyện bình định Lĩnh Nam. Ý trẫm đã quyết, định thăng Địch Thanh là Xu mật phó sứ, tổng lãnh sự vụ bình nam, nếu có quân công, ban thưởng thêm.

Lời nói này vừa ra, cả triều phải kinh hãi.

Địch Thanh lấy binh nghiệp người kình mặt, có thể vào lưỡng nha vinh dự thăng làm Phủng nhật, Thiên Võ Tứ Sương Đô Chỉ huy sứ, đã là chuyện Đại Tống hiếm có. Mà bây giờ mới về kinh, thì có thể vào lưỡng phủ, đó thật sự là chuyện chưa từng có từ khi Đại Tống khai quốc. Lúc này Địch Thanh nhập chủ Xu Mật viện, nếu chiến đấu thành công, thưởng thêm, không phải là Xu Mật sứ sao? Nghĩ Đại Tống thời danh tướng Tào Bân, cũng không có lễ ngộ này. Mà Đại Tống từ Thái Tổ tới nay, xưa nay lấy văn chế võ, lần này Thánh Thượng truyền chỉ, Địch Thanh không bị kiềm chế, trực tiếp phụ trách điều binh khiển tướng, quả thật là đánh vỡ việc làm của gia pháp tổ tông.

Quần thần phản đối

Nhưng phản đối ở trong lòng, quần thần ở lâu triều đường, biết phân lượng của bốn chữ "ý trẫm đã quyết". Triệu Trinh mở miệng chính là bốn chữ này, thì đã tỏ rõ thái độ, nếu có người phản đối, vậy được, ai phản đối thì người đó đi bình định!

Ai cũng không muốn đi bình định

Triệu Trinh thấy quần thần im lặng, chậm rãi gật đầu nói:

- Nếu chúng khanh gia không có ý kiến khác...

Y kéo dài âm điệu, vọng nhìn quần thần.

Có Gián quan tiến lên nói:

- Thánh Thượng, gia pháp tổ tông có qui định, võ tướng không thể độc quyền nắm quân lệnh. Thần cho rằng, thích hợp phái Địch Thanh làm trợ thủ, lại phái một văn thần tổng quản Lĩnh Nam là việc thích hợp.

Quần thần nghe xong, đều gật đầu đồng ý.

Địch Thanh không biết Gián quan đó là người nào, nhưng biết triều đình mấy năm nay, không chỉ là bộ mặt như vậy, ngay cả luận điệu cũng giống nhau. Hắn cũng không lên tiếng, chỉ là lạnh lùng cười.

Triệu Trinh thoáng nhìn thấy Địch Thanh cười lạnh, trong lòng khẽ run, quát:

- Vậy phái khanh trên Địch Thanh phải không?

Gián quan kinh sợ, ngược lại còn có tự biết tự rõ, vội nói:

- Thần không đủ tư cách.

Triệu Trinh nhìn xung quanh mọi người, hỏi:

- Chúng khanh gia ý thế nào?

Mọi người cảm thấy tức giận của Triệu Trinh, phát hiện lạnh lùng của Địch Thanh, nhất thời hoang mang không dám nói nhiều, cuối cùng Bàng Tịch tiến lên trước nói:

- Khởi bẩm Thánh Thượng, lúc bình thường, làm chuyện bình thường. Thần cho rằng, Địch Thanh thân là võ tướng, kế dụng binh xưa nay người thường khó dò, nếu phái người hiệp trợ hay chỉ huy, cũng khó thể hội dụng ý Địch Thanh, như vậy khó có thể thống nhất hiệu lệnh, bất lợi cho chiến đấu. Thần cho rằng, vẫn là để Địch Thanh chuyên nhiệm là tốt.

Triệu Trinh chậm rãi gật đầu, nhẹ thở một hơi nói:

- Nếu đã như vậy, thì cứ quyết định như thế đi, Địch ái khanh, không biết khi nào khanh khởi hành vậy?

Hôm qua y trở về trong cung, bên bàn lại tới mấy chục tấu chương, từ lâu trong lòng nóng như lửa đốt.

Cuối cùng Địch Thanh tiến lên, thi lễ nói:

- Cứu binh như cứu lửa, thần xin ngày mai xuất binh.

Triệu Trinh mừng rỡ, nói:

- Vậy chúc Địch tướng quân mã đáo thành công. Dùng ánh mắt ý chỉ quần thần, quân thần thấy thế, lần lượt tiến lên chúc mừng. Có chúc mừng Địch Thanh đánh trận đắc thắng, có chúc Địch Thanh nhập chủ lưỡng phủ.

Biểu hiện mọi người tuy là hòa hợp nhau, nhưng trong lòng luôn cảm giác khó chịu bất mãn.

Lúc này Văn Ngạn Bác tới bên cạnh Địch Thanh, mỉm cười nói:

- Địch đại nhân lần này vào Xu Mật viện, người gặp chuyện vui, chữ xâm trên mặt đều có chút tỏ sáng.

Nói rồi lại cười, giống như là trêu đùa.

Quần Thần cùng cười, nhưng trong tiếng cười, ẩn chứa ý chế giễu.

Địch Thanh lạnh lùng nhìn Văn Ngạn Bác, chăm chú nhìn khiến Văn Ngạn Bác cả người không được tự nhiên, hồi sau mới nói:

- Nếu là Văn đại nhân thích, ta có thể khắc vài chữ miễn phí giúp ngài.

Nụ cười Văn Ngạn Bác cứng đờ, xấu hổ vô cùng, lại không biết phản bác lại thế nào mới tốt. Nụ cười của quần thần cũng ngưng trên mặt, nhất thời không nói.

Triệu Trinh trên ghế rồng nhìn thấy, âm thầm nhíu mày, sau một hồi lâu nói:

- Địch khanh gia, nếu khanh không thích chữ xâm, thì có thế bỏ đi.

Địch Thanh trả lời:

- Chữ xâm có thể bỏ đi, nhưng có những thứ khắc ở trong lòng, rất khó bỏ đi. Thánh Thượng, thần phải xuất chiến, xin cáo từ đi trước.

Nói rồi xoay người đi, lúc đi tới trước văn thần lúc nãy nói hắn xích lão... đột nhiên Địch Thanh dừng bước.

Mấy văn thần đó biết không hay, thấy Triệu Trinh im lặng như nước, vội chắp tay, bảy mồm tám lưỡi xưng hô Địch đại nhân, hoặc nói Địch tướng quân, hoặc xu nịnh trực tiếp gọi Xu mật phó sứ đại nhân, đều chúc Địch Thanh thắng ngay trận đầu, mã đáo thành công.

Địch Thanh ngửa mặt lên trời cười, lớn tiếng nói:

- Xu Mật phó sứ đại nhân? Ha ha, chỉ là một xích lão, nào dám phiền mấy vị đại nhân lễ ngộ như vậy?

Nói rồi sải bước bỏ đi, nhưng tiếng cười kích động đó vọng vang không ngớt, cuồn cuộn nổi lên lá rụng mưa gió, dần dần đi xa.


Cửu Mộng Tiên Vực

Hồi (1-119)


<