Vay nóng Tinvay

Truyện:Nam quốc sơn hà - Hồi 18

Nam quốc sơn hà
Trọn bộ 50 hồi
Hồi 18: Bà Chúa Kho Đại-Việt
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-50)

Siêu sale Lazada

Hôm ấy là ngày mười bốn, trăng thu sáng vằng vặc như ban ngày. Dân chúng Thăng-long đổ xô về chùa Thánh-chúa, làng Dịch-vọng, để được thấy dung nhan Ỷ-Lan phu nhân. Người ta bàn tán ồn ào: Xưa đức vua mộng thấy Ngọc-Hoàng thượng đế truyền cho Hằng-Nga giáng thế để làm vợ ngài; lại cho Thanh-y đồng tử đầu thai làm con của Hằng-Nga. Nay đức vua đã tìm thấy Hằng-Nga là Ỷ-Lan phu nhân rồi. Vì vậy đức vua tổ chức cầu tự ở chùa Thánh-chúa, mong chư vị Bồ-tát giúp Thanh-y đồng tử đầu thai dễ dàng. Lễ cầu tự do đại thần là Chi-hậu nội-nhân Nguyễn Bông, tước Trường-yên hầu đích thân điều khiển. Thời gian cầu tự kéo dài 49 ngày. Hôm nay là ngày cuối cùng. Đức vua cùng với Ỷ-Lan phu nhân thân tới chùa lễ tạ. Tháp tùng nhà vua, còn có Yên-vương vương phi Lê Thiếu-Mai, công chúa Thiên-Ninh, quan tổng-lĩnh thị-vệ Đỗ Oanh.

Từ hôm trở về cung, Ỷ-Lan đã tâu xin cho trương tuần xã Siêu-loại là Lê Huy làm chức vũ-vệ hiệu úy cung Ỷ-Lan. Nàng cũng cắt mười lăm thang thuốc mà Mộc-tồn hòa thượng cho nàng để trị bệnh. Mỗi thang chia làm hai phần. Phần uống buổi sáng để trục độc khỏi người. Phần uống buổi chiều để tư bổ can, thân, Xung, Nhâm mạch. Chứng huyết trắng đã được trị dứt. Nhưng người nàng lúc nào cũng bứt rứt, da căng lên, mà mồi hôi thì không chưa thoát ra được. Ngự-y không tìm thấy lý, thành ra không đưa ra pháp, phương. Ỷ-Lan cho rằng nàng lại bị đầu độc nữa.

Nhà vua vội sai sứ giả mời Yên-vương phi tức Thiếu-Mai tiên nương vào cung. Nhưng sứ giả nói thác rằng để dạy nàng về những lễ nghi, tổ chức, luật lệ của Tống triều, mà thực ra để vương phi kiểm soát việc ăn uống cho nàng, tránh khỏi bị đầu độc nữa. Chiều nay, tiên-nương về tới, thì đúng lúc nhà vua với nàng phải ra lễ tạ ở chùa Thánh-chúa, nên nàng mời tiên-nương cùng đi.

Trước khi khởi hành, Ỷ-Lan cho gọi Tây-hồ thất kiệt, Long-biên ngũ hùng cùng đi. Chúng cỡi ngựa, chia làm hai hàng, đi hai bên xe Ỷ-Lan.

Tăng chúng trong chùa xếp hàng ra đón đức vua cùng Ỷ-Lan phu nhân. Đức vua thân ban thưởng chư tăng, rồi ngài cùng phu nhân phát chẩn cho kẻ khó. Chi-hậu Nguyễn Bông tâu rằng chỉ người nghèo mới được lĩnh chẩn mà thôi. Nhưng Ỷ-Lan phu nhân ban chỉ rằng: người có mà cũng đến xin lĩnh chẩn, đâu phải họ nghèo đói? Chẳng qua họ hiếu kính với đức vua, nên muốn được thấy long nhan. Vậy chẳng nên phân biệt kẻ giầu người nghèo.

Vì thế cuộc phát chẩn trở thành lễ ban lộc cho dân. Mỗi phần lộc gồm có oản, chuối, bánh, và mười đồng tiền. Đây là loại tiền mới đúc, trên mặt có chữ Chương-thánh thông bảo. Thời bấy giờ giá mỗi đấu gạo là một đồng. (Mỗi đấu tương đương với ngày nay là 1,1kg). Đa số dân chúng được tiền vua ban đều xỏ vào dây, rồi đeo lên cổ.

Cuộc phát chẩn đến gần khuya thì xong. Nhà vua với Ỷ-Lan phu nhân lên xe bốn ngựa về Hoàng-thành. Công chúa Thiên-Ninh ngồi đánh xe. Hai bên đường, dân chúng chen chúc, cúi đầu chắp tay lễ đức vua. Đi trước xe là một toán ngự-lâm quân dẹp đường. Thị vệ mặc giáp bạc, gươm đao sáng ngời ruổi ngựa song song làm hai. Trước và sau xe là ngựa của Long-biên ngũ-gùng, Tây-hồ thất kiệt.

Chợt phiá trước thị-vệ ùn lại, có nhiều tiếng cãi vã, làm quan tổng-lĩnh thị vệ Đỗ Oanh phải vọt ngựa lên trước xem xét. Công chúa Thiên-Ninh ghì cương cho xe chậm lại.

Nhà vua hỏi:

– Cái gì vậy?

Đúng là điếc hay hóng, ngọng hay nói. Dương Minh tức Minh ngọng trong Tây-hồ thất kiệt tâu:

– Có... có... có người người người... ăn... ăn mày tàn tật ngồi cản đường. Y nói, vì chân bị què, không thể đến chùa lĩnh lộc, nên y nằm giữa đường chờ xa giá bệ hạ để xin ân ban.

Ỷ-Lan tung mình lên cao, thân pháp nàng uốn lượn dưới bóng trăng trông đẹp không thể tưởng tượng nổi. Nàng ban chỉ:

– Không được đuổi người ta.

Nói rồi nàng xẹt tới chỗ người ăn mày. Trước mắt Ỷ-Lan là một người đàn ông, đầu quấn khăn nâu, áo cánh rách mấy chỗ, quần cũng vá năm sáu miếng, lưng đeo cái bị cũ. Y nói:

– Đường này là đường của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng để lại, đâu phải đường của riêng nhà vua, mà các chú đuổi tôi? Vả, tôi bị tật, không chen vào xin lộc vua được, nên tôi nhất định ngồi đây đợi đức vua đi qua thỉnh chứ!

Thị-vệ định hè nhau nhắc người ăn mày đem vào lề đường thì Ỷ-Lan tới. Nàng vẫy tay cho thị-vệ:

– Các người lui ra, để đấy cho ta giải quyết.

Nàng cất giọng ôn nhu nói với người ăn mày:

– Này anh, năm nay anh bao nhiêu tuổi, tại sao lại bị tật?

Người ăn mày ngước mắt lên nhìn Ỷ-Lan rồi hỏi lại:

– Cô là vợ vua đấy hả?

Ỷ-Lan phì cười:

– Tôi là nàng hầu của vua mà thôi.

– Nàng hầu! Nàng hầu hay vợ thì chỉ khác nhau cái tên. Nhưng thực tế ra thì cũng là vợ cả. Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả. Tôi đói quá, cô có gì cho tôi ăn không?

Ỷ-Lan xòe hai tay:

– Bao nhiêu lộc đã phát hết rồi, tôi không còn gì cả.

Người ăn mày bưng mặt khóc hu hu:

– Hỡi ơi! Ngay tại kinh thành, chính vua với vợ vua mà cũng không giữ được công bằng, kẻ nhanh chân thì được, người tàn tật thì không. Hỏi như vậy ở các trấn, ở thôn trang nhỏ thì làm sao có lẽ công bằng?

Câu cãi vã với thị-vệ cùng lời than này, làm Ỷ-Lan tỉnh ngộ: đây là một kỳ nhân dị sĩ. Y đón đường với mục đích gì chứ không phải là ăn mày bình thường. Nàng cũng nhận ra tiếng nói của y hơi khàn khàn, rất quen thuộc, rất thân ái, nhưng trong nhất thời nàng không nhớ ra đã gặp ở đâu? Nàng nhìn sang bên cạnh: trong khi Long-biên ngũ hùng ngẩn người ra nhìn gã ăn mày; còn Tây-hồ thất kiệt mặt hiện ra vẻ uy nghi trang trọng, hai tay chắp lại. Dường như chúng đã nhận ra được chân tướng người ăn mày.

Chợt Ỷ-Lan nghĩ lại: ban nãy, khi rời chùa, Nguyễn Bông có dành một mâm lộc Phật sai cung nữ cất vào quả mang về cung cho nhà vua với Ỷ-Lan thụ lộc. Nàng bảo Nguyễn Bông:

– Hầu đem quả đựng lộc cho ta.

Nguyễn Bông lưỡng lự:

– Tâu phu nhân, lộc đó dành dâng hoàng thượng với phu nhân, không thể bố thí được.

Ỷ-Lan lạnh lùng:

– Của hoàng thượng lại càng nên bố thí. Hầu đưa quả đó đến đây ngay.

Cung nữ bưng quả đựng lộc tới. Ỷ-Lan mở nắp, lấy bánh, oản, chuối đưa cho người ăn mày. Rồi an ủi:

– Đây, lộc đây đem về mà ăn. Thế nhà anh ở đâu, để tôi sai người đưa về?

Một tay người ăn mày cầm oản ăn, một tay xoè ra:

– Ai cũng được mười đồng tiền, tại sao tôi lại không? Tôi nghĩ dường như ông vua với vợ... trong túi không có một đồng tiền thì phải?

Ỷ-Lan phì cười, vì lời người ăn mày quả không sai. Nàng thấy công chúa Thiên-Ninh đã xuống xe, đến cạnh nàng từ bao giờ. Nàng hỏi:

– Công chúa có tiền không?

– Có chứ, cháu có mang theo đây.

Thiên-Ninh đưa cái túi bên mình cho Ỷ-Lan. Ỷ-Lan mở túi ra, thì bên trong chỉ có vàng, bạc với ngọc, mà không thấy tiền. Thiên-Ninh cầm lấy túi dốc ra, được mười tám đồng tiền. Ỷ-Lan cầm tiền trao cho người ăn mày. Hai tay y tiếp tiền. Khi bàn tay y chạm bàn tay Ỷ-Lan, nàng cảm thấy một nguồn nội lực chính đại quang minh giống hệt Vô-ngã tướng thiền công của nàng... từ người y truyền vào người nàng. Kinh hãi, nàng vội vận công chống lại, nhưng không kịp nữa, Thiền-công của người ăn mày chạy khắp cơ thể. Nàng cảm thấy khoan khoái kỳ lạ. Biết người ăn mày không có ác ý, Ỷ-Lan buông lỏng kình lực. Chỉ trong vòng năm tiếng đập tim, y thu công lại, bỏ tiền vào túi.

Người ăn mày móc trong bị ra hai con rồng bằng sứ, lớn bằng bắp chân, hai tay dâng lên cho Ỷ-Lan:

– Biếu cô đấy! Rồng bố với rồng con cùng bay xuống Đại-Việt. Rồng bố bay trước, rồng con bay sau. Chẳng may rồng bố bị mãng xà phun khói độc che mất, nên rồng con bị lạc. Tôi thấy chúng bơ vơ, bắt bỏ bị bấy lâu. Nay mây mù mãng xà được Hằng-Nga quét đi, tôi trả rồng con lại để phụ tử đoàn tụ.

Mỗi lời nói của người ăn mày đều bao hàm ý tứ sâu sa. Nhà vua hiểu rằng: đúng số mệnh, ngài đã có hoàng nam, nhưng vì Hoàng-hậu cùng kẻ gian đầu độc các phi tần nên Thanh-y đồng tử chưa đầu thai được. Nay có Ỷ-Lan, thì chắc chắn ngài sẽ sinh hoàng nam.

Ỷ-Lan đưa tay tiếp hai con rồng. Dưới ánh trăng, nàng nhìn rõ: hai con rồng làm bằng sứ Bát-tràng cực kỳ tinh vi.

Người ăn mày nói với công chúa Thiên-Ninh:

– Bà là người giữ kho của vua đấy à? Này bà chúa kho, đồng rụng, đồng rơi của bà, nhưng là tài sản lớn vô cùng của kẻ khó đấy.

Câu nói của người ăn mày làm nhà vua với Ỷ-Lan đã nhận ra chân tướng của y: y chính là Khất hòa thượng, tức thiền sư Minh-Không tái thế, từng ngăn đường trêu ghẹo cháu tể tướng Dương Đạo-Gia, lần khác coi số Tử-vi cho Ỷ-Lan, và hôm ở chùa Tiêu-sơn đã dùng Thiền-công trị độc cho nhà vua.

Ghi chú, Phải. Người ăn mày đó chính là Minh-Không Bồ-tát tái đấu thai, sau này ngài trị bệnh cho vua Lý Thần-tông, được phong là Quốc-sư. Lời nói đùa của một vị Bồ-tát, nên trở thành linh ứng kỳ lạ. Trong cuộc đánh sang Tống, cùng chống Tống xâm lăng, công chúa Thiên-Ninh phụ trách toàn bộ việc thu góp lương thảo, tổ chức kho đụn. Binh tướng gọi bà là bà chúa kho. Sau khi tuẫn quốc ở trận Như-Nguyệt, công chúa rất thiêng. Ai thành tâm đến đền thờ công chúa cầu tài đều được.

Ỷ-Lan vội cung tay:

– A-di-đà Phật, thì ra Khất đại sư. Đệ tử là Yến-Loan xin ra mắt đại sư phụ.

Nhà vua cũng tiến lên hành lễ. Trong khi xung quanh, nào cung nga, nào thái giám, nào thị vệ cùng quỳ gối đỉnh lễ ngài. Khất hoà thượng đứng lên lột cái khăn trên đầu, lập tức hiện ra một khuôn mặt từ ái, miệng như cười mà không phải cười.

Bây giờ Ỷ-Lan mới hiểu tại sao Tây-hồ thất kiệt thoáng thấy Minh-Không bồ tát đã cung cung, kính kính chắp tay đứng xung quanh ngài. Thì ra chúng gần ngài lâu ngày, biết ngài hay giả ăn mày, nên chỉ thoáng một cái chúng nhận ra ngài, mà không dám nói thực chân tướng ngài cho nàng.

Khất đại sư thuyết pháp. Tiếng của ngài trong, cao, rất rõ ràng. Ngài giảng về cái nghiệp quả của nhà Phật. Sau khi giảng xong, ngài nhìn vào mặt Nguyễn Bông mà kết luận:

– Xung quanh ta đây thiếu gì những trái chủ đòi nợ lẫn nhau. Người này gây quả, người khác đòi. Thù oán chồng chất biết bao giờ hết? Sao bằng xóa bỏ đi là hơn!

Nói xong, ngài nhấp nhô mấy cái, đã biến mất trong đám đông. Nhà vua cùng Ỷ-Lan hướng theo ngài lễ ba lễ.

Xa giá nhà vua đã về tới cung Ỷ-Lan. Yên-vương phi Thiếu-Mai hỏi Ỷ-Lan:

– Thế nào? Minh-Không bồ-tát dồn Thiền-công trị bệnh cho phu nhân, phu nhân thấy sao?

Nhà vua hỏi:

– Thưa sư thúc. (Lời chú: nhà vua là học trò của thái-sư Dương Bình. Mà thái-sư Dương Bình là sư huynh của tiên-nương Thiếu-Mai, lấy lý đó, nhà vua gọi bà là sư thúc). Bồ tát dồn Thiền-công cho Ỷ-Lan bao giờ?

Thiếu-Mai cười tủm tỉm nhìn Ỷ-Lan. Ỷ-Lan tuyệt không ngờ tiên-nương lại tinh mắt đến thế. Nàng đáp thay cho bà:

– Tâu bệ hạ, khi thiếp trao tiền cho ngài, ngài dồn Thiền-công sang người thiếp.

Thiếu-Mai bảo Ỷ-Lan ngồi yên, rồi bà cầm mạch. Lát sau tiên-nương gật đầu:

– Ài chà! Phu nhân mới bằng này tuổi, mà đã chịu không biết bao nhiêu điều bất hạnh. Nào bị đánh bằng đũa cả, nào bị ném vào chuồng hôi, nào bị tra tấn cùm kẹp, nào bị hấp Chu-sa ngũ độc, nào bị dồn Huyền-âm độc tố. Nhưng may mắn được vua bà Bình-Dương dạy Vô-ngã tướng công nên hóa giải hết những di chứng rồi. Này phu nhân ơi! Sau đó phu nhân bị đầu độc bằng đường ngoài da, bằng đường ẩm thực, rồi bằng chân khí, đến nỗi có huyết trắng. Dường như hôm trước phu nhân đã được Mộc-tồn hoà thượng cho một phương thuốc để trị. Nhưng chưa kịp trị, lại bị người ta đầu độc bằng nọc tầm độc của người Miêu, với ý định giết chết phu nhân. May nhờ phu nhân luyện Vô-ngã tướng công, mới thoát chết, nọc tầm chỉ gây hỗn loạn Xung, Nhâm mạch mà thôi.

Tiên-nương ngước mắt nhìn lên trời:

– Phương thuốc của Mộc-tồn hòa thượng trị được tất cả những di chứng đánh bằng đũa cả, rơi xuống chuồng hôi, khảo băng kìm kẹp, Chu-sa huyền âm, cùng giải hết chất độc bị người ta hại... Còn khi ngài cho thuốc phu nhân thì người phu nhân chưa có nọc tầm độc, nên ngài không có những vị thuốc giải. Do vậy phu nhân uống thuốc của ngài mà nọc tầm vẫn còn đó. Không hiểu bằng cách nào, Minh-Không bồ tát biết được, ngài đã dùng thượng-thừa Thiền-công đẩy nọc tầm ra ngoài da cho phu nhân.

Bà buông tay Ỷ-Lan ra rồi nói:

– Nọc tằm gây độc cho da. Da bên ngoài, da trong bao tử, trong ruột và trong tử cung. Ngài đã dồn Thiền-công cho phu nhân, hiện da trên người phu nhân đang căng thẳng. Chỉ cần phu nhân tắm xong là mồ hôi đổ ra, bao nhiêu nọc tầm sẽ theo đó rời cơ thể phu nhân.

Chợt nhớ ra một chuyện, Ỷ-Lan hỏi Tiên-nương:

– Sư thúc, cháu lớn mật dám thỉnh sư thúc về lý lịch một người. Mong sư thúc đừng tiếc công chỉ dạy.

– Phu nhân muốn biết lý lịch ai? Bất cứ lý lịch một nhân vật dù Hoa, dù Việt, dù Chiêm, Khu-mật viện đều biết hết. Phu nhân cứ hỏi Thái-bảo Thường-Kiệt, người quản Khu-mật viện là ra ngay, tại sao lại hỏi ta?

Chợt bà nhớ lại điều gì, rồi bà lắc đầu:

– Ừ nhỉ, có hai nhân vật mà Khu-mật viện không biết. Một là kẻ đánh thuốc mê ám hại Thái-bảo Thường-Kiệt. Vụ án xẩy ra đã hơn hai mươi năm, mà cho đến nay Thái-bảo cũng chưa tìm ra thủ phạm để trả thù. Người thứ nhì là Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng.

Ỷ-Lan giật mình, nàng không ngờ tiên-nương lại minh mẫn đến như vậy. Thực sự nàng muốn hỏi lý lịch Mộc-tồn hòa thượng. Nàng than:

– Người mà cháu muốn hỏi là Mộc-tồn hòa thượng. Hoà thượng tuy là sư bá của cháu, mà tuyệt cháu không biết chân tướng người. Cháu nghe sư phụ Bình-Dương nói rằng: khi Mộc-tồn hòa thượng kết án ai, chỉ cần sư thúc với tiên nương Bảo-Hòa lên tiếng xin tha, lập người ân xá liền. Như vậy hẳn sư thúc phải biết rõ chân tướng người chứ?

Nàng mỉm cười tinh quái:

– Mỗi ngày sư bá Mộc-tồn để ra một giờ ngồi tưởng nhớ lại người vợ xưa. Cháu nghe nói, hồi niên thiếu sư bá có một mối tình diễm ảo. Sau đó bị tan vỡ. Vì vậy cả đời người không tưởng đến người đàn bà nào khác, để giữ mối chung tình với người cũ. Sư bá quả là người đa tình số một của Đại-Việt. Không biết người tình của sư bá là ai mà có phúc vậy? Phải chăng là sư thúc? Sư thúc khỏi xấu hổ, sư thúc kể sự thực cho cháu nghe đi.

Thiếu-Mai lắc đầu tha thứ:

– Người ta nói, các thiếu nữ thích tò mò vào chuyện tình, thực đúng. Phu nhân đã là người lĩnh hồng ân số một của hoàng-thượng, mà cũng còn tính ngây thơ như khuê nữ vậy! Quả ta có biết rõ Mộc-tồn là ai, chính vì thế mà biết luôn mối hận tình thiên thu của người. Khi ta khám phá ra chân tướng người, người xuống nước năn nỉ ta đừng tiết lộ lý lịch người, thì vĩnh viễn trọn đời ta nói gì người cũng nghe. Ta nhân đấy bắt người tuyên thệ rằng: khi người tuyên án ai, ta lên tiếng là phải ân xá ngay. Người hứa.

Tiên-nương chỉ nhà vua:

– Căn cước Mộc-tồn hòa thượng, tiên-nương Bảo-Hòa cũng biết đấy. Hoàng thượng là đệ tử, là em tiên-nương, vậy sao phu nhân không hỏi tiên-nương là ra ngay chứ khó gì?

– Cháu đã hỏi, nhưng tiên-nương làm nghiêm vẫy ta ra hiệu không cho cháu tò mò. Thôi, lý lịch sư bá Mộc-tồn cháu không biết cũng chẳng sao. Cháu nhờ sư thúc một chuyện?

– Chuyện gì vậy?

– Sư thúc nói gì sư bá của cháu cũng phải nghe theo. Vậy sư thúc yêu cầu người điều tra ra thủ phạm đã hại sư huynh Thường-Kiệt dùm cháu. Hồi cháu còn hàn vi, sư huynh chiếu cố đến cháu bằng tất cả tình như cha với con. Cháu muốn tìm ra kẻ thù của người, để gọi là báo một chút ơn nho nhỏ.

Thiếu-Mai trầm tư một lúc, rồi lắc đầu:

– Ta không muốn ép hoà thượng quá đáng. Hồi Thường-Kiệt bị nạn, vương phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai đã giả làm Ưng-sơn song hiệp, tìm ra thủ phạm rồi. Nhưng Khai-Quốc vương khẩn khoản xin người dấu kín, để vụ án đó ; có thể tiếp tục làm áp lực với thủ phạm, hơn là công bố. Vậy phu nhân muốn biết y là ai, cứ thỉnh quốc-mẫu Thanh-Mai thì rõ, sao lại hỏi ta?

Tiên-nương sợ Ỷ-Lan tò mò nữa, bà vỗ vai nàng, chỉ vào phòng tắm:

– Thôi phu nhân vào tắm đi.

Khi Chương-thánh Gia-khánh nhận được tấu chương của Ỷ-Lan với Thiên-Ninh gửi từ Siêu-loại về, ngài tin tất cả. Duy việc Thượng-Dương hoàng hậu trốn đi họp với Tống và Nguyễn Bông làm gian tế là ngài không tin mà thôi. Bởi chính cái đêm mà Thiên-Ninh tâu rằng Thượng-Dương đi họp với Tống, thì bà se mình, ngài phải triệu thái y trị bệnh cho bà. Như vậy sao bà có thể đi họp được?

Nay nghe Yên-vương phi chẩn mạch, dẫn giải, bệnh của Ỷ-Lan, đúng như những gì Ỷ-Lan với Thiên-Ninh thượng biểu, ngài mới tin mấy phần. Ngài chưa kịp hỏi, thì tiên-nương đứng dậy hỏi cung nữ phụ trách nấu nước tắm:

– Có phải tiểu cô nương nấu nước cho phu nhân tắm không?

– Khải tiên-nương đúng ạ.

– Tiểu cô nương tên gì?

– Tiểu tỳ tên Chu Thúy-Phượng.

– Cô nương đã dùng những hương liệu gì nấu nước tắm?

– Tiểu tỳ không biết, quan thái y ra đơn, rồi Thái-y viện cắt, trao cho tiểu nhân. Tiểu nhân chỉ biết nấu mà thôi.

Nói dứt Thúy-Phượng trao gói thuốc cho Thiếu-Mai. Tiên-nương mở ra xem, bên trong gồm có: sinh khương, ma hoàng, quế chi, tang diệp, trúc diệp, tô diệp, mộc hương, xạ hương. Bà gật đầu:

– Được lắm.

Bà bảo Ỷ-Lan:

– Phu nhân để ta kiểm lại nước tắm đã.

Ỷ-Lan cúi rạp người xuống:

– Tiên-nương! Thân thể tiên-nương cao quý biết mấy. Muôn ngàn lần cháu không dám để tiên-nương làm những việc này đâu.

Thiếu-Mai cầm tay Ỷ-Lan, ôm sát đầu nàng vào vai mình, như mẹ đối với cô con gái nhỏ:

– Em đừng ngại. Ta là bạn thân của tiên-nương Bảo-Hòa với vua bà Bình-Dương, thì cũng như chị của em. Xung quanh em có nhiều cạm bẫy nguy hiểm, đừng nói giữa chúng ta có thâm tình, ngay như em là người ngoài, với y-đạo Đại-Việt ta cũng phải giữ gìn em. Đối với những người cùng dân bị bệnh, ta đã từng làm như thế.

Ỷ-Lan thấy ba phụ nữ: vua bà Bình-Dương thì nhẹ nhàng như hương sen, hành trạng như Quan-âm. Tiên nương Bảo-Hòa thì thoang thoảng mùi trầm, tư thái khoan hòa, nhưng khi đối phó với biến cố thì lại cương quyết vô cùng. Còn Thiếu-Mai, nàng cảm thấy bà ấm cúng, ngọt ngào như người mẹ hiền. Lời nói vừa rồi của bà làm nàng cảm động đến rơi nước mắt.

Thiếu-Mai vào phòng vốc nước tắm lên ngửi, nếm qua một giọt rồi gật đầu:

– Được, phu nhân tắm được rồi.

Ỷ-Lan cùng Thúy-Phượng vào phòng tắm. Thúy-Phượng múc nước dội lên người Ỷ-Lan, rồi cầm cái sơ mướp kỳ nhè nhẹ cho nàng. Từ khi đem Thúy-Phượng vào cung, Ỷ-Lan đối xử với nó như chị em. Khi chỉ có hai người, thì nàng với cô bé vui đùa với nhau như hai người bạn. Còn khi có đệ tam nhân, thì Thúy-Phượng giữ lễ như một cung nga với một phi tần. Hai người vào phòng tắm là cười đùa với nhau liền.

Ngoài này nhà vua với Thiếu-Mai đàm luận về Minh-Không bồ tát tái đầu thai. Nhà vua đưa hai con rồng bằng sứ cho tiên-nương, rồi nói:

– Sư thúc xem, hai con rồng sứ này thực là đẹp. Thủ thuật đồ sứ Đại-Việt ngày càng tinh vi, khác hẳn với đồ sứ Tống.

Thiếu-Mai cầm hai con rồng lên xem, bà tung nhè nhẹ, rồi lại bắt lấy mấy lần. Trong bụng rồng có tiếng lọc xọc như sỏi chạm nhau. Trán bà hơi cau lại, tay lật ngửa bụng rồng lên. Bất giác bà than:

– Có như vậy chứ!

Nhà vua kinh ngạc:

– Sư thúc thấy gì lạ chăng?

– Bệ hạ thử cầm hai con rồng lên, rồi chú ý xem có gì lạ không?

Nhà vua tiếp hai con rồng, ngài gật đầu:

– Hai con rồng này rỗng không ra rỗng, mà đặc không ra đặc. Có lẽ trong bụng đựng cái gì cũng nên?

Thiếu-Mai cầm con dao nhỏ, cạo sơ lớp sành ở bụng rồng, lập tức hiện ra vệt tròn bằng đồng tiền. Bà cho lưỡi dao cậy mạnh, miếng sành tròn rời khỏi bụng rồng, thì ra đó là cái nắp. Bên trong bụng rồng đầy những viên thuốc nhỏ mầu đen sẫm. Bà cũng làm tương tự với con thứ nhì, trong bụng nó cũng đầy thuốc, nhưng mầu đỏ.

Nhà vua than:

– Thì ra Bồ-tát ban thuốc cho mà trẫm không hay. May nhờ sư-thúc tinh tế tìm ra. Không rõ thuốc này hiệu năng ra sao?

Thiếu-Mai đưa viên thuốc đen lên miệng cắn vỡ ra, rồi nhai nhỏ. Bà cầm bút viết:

– Thục-địa, sơn-dược, kỷ-tử, sơn-thù-nhục, cam-thảo nướng, nhục-quế, đỗ-trọng, chế-phụ-tử, lộc-nhung, nhân-sâm.

Bà mỉm cười:

– Chà, phương thuốc thực là cao minh. Ngài đã tốn biết bao tâm huyết để tìm ra, hầu trị chứng hiếm muộn cho bệ hạ.

Nhà vua cảm động:

– Hèn gì lúc ban thuốc, thuốc ngài nói những lời cao xa: rồng cha xuống trước, lạc rồng con, vì bị nọc mãng xà. Thì ra thuốc giúp cháu phục hồi sức khoẻ để có thể sinh hoàng nam. Xin sư thúc dạy cho: ích lợi của phương thuốc này ra sao?

Thiếu-Mai giảng giải:

– Hiệu năng của nó là bổ thận, tráng dương. Trong phương thuốc trên, thì thục-địa, sơn-dược, thù-nhục, kỷ-tử, bổ thận âm. Nhục-quế, phụ-tử, nhân-sâm để ôn dưỡng thận dương. Cam-thảo nướng bổ ích khí tỳ-vị. đỗ-trọng, lộc-nhung để cường ích tinh khí. Phàm khi mệnh-môn hóa suy, đưa đến hư hàn, dương ủy (lời chú: bất lực sinh lý) đều dùng được. Nay cơ thể của bệ hạ, thận dương hư suy, âm hàn nội thịnh, nên bụng đau, lưng yếu, chân tay lạnh... Hôm trước ngài đã dùng thượng thừa Thiền-công trị di chứng phong thấp cho bệ hạ. Nay lại dâng phương thuốc này nữa mới có thể sinh hoàng nam.

Bà lại cắn viên thuốc đỏ, nhai nhỏ, rồi cầm bút viết:

– Bạch-đậu, nhân-sâm, bạch-truật, cam-thảo nướng, sơn-dược, liên-tử nhục, cát-cánh, ý-dĩ-nhân, sa-nhân.

Nhà vua cũng hơi biết y-lý ngài nói:

– Dường như phương thuốc này để giúp cho ăn ngon thì phải?

– Đúng vậy. Hiệu năng là bổ khí kiên tỳ, hòa vị khô thấp. Nghĩa là bổ khí-tỳ vị, làm giảm lượng nước ẩm thấp trong người. Chủ trị: tỳ vị yếu, tiêu hóa khó khăn, do vậy lượng thủy ứ trong người, khi thì mửa, khi thì tiêu chảy.

Bà chỉ vào hai loại thuốc:

– Bệ hạ uống thuốc đỏ trước, sau khi thuốc đỏ hết thì uống thuốc đen.

– Sư thúc, tại sao không bổ thận trước, mà lại bổ tỳ vị trước?

Thiếu-Mai giảng:

– Muốn cho cơ thể khoẻ mạnh, phải làm sao cho ăn uống tốt đã. Than ôi! Cơ thể con người gồm có tiên-thiên khí và hậu-thiên khí. Gốc của cơ thể đầu tiên là hạt tinh khí của người cha, gieo vào người mẹ. Những gì bào thai được người mẹ nuôi dưỡng là nguyên-khí. Tinh-khí, nguyên-khí tạo thành tiên-thiên khí. Tiên-thiên khí của bệ hạ cực thịnh, bởi Tiên-hoàng, Tiên-hậu đều là người tập võ, công lực không tầm thường. Chỉ có hậu-thiên khí là yếu đuối thôi. Nên phải uống thuốc bổ tỳ-vị hầu ăn uống khỏe mạnh lên. Sau đó mới uống thuốc bổ thận tráng dương.

Nhà vua kinh ngạc:

– Hậu thiên khí của cháu ra sao mà lại yếu?

– Hậu thiên khí bao gồm thiên-khí và địa-khí. Thiên-khí là khí trời thở hít. Địa-khí là nuôi dưỡng. Về ăn uống thì Bệ hạ được nuôi nấng khá chu đáo. Riêng thiên-khí thì hồi thơ ấu, bệ hạ do Linh-Cảm thái hậu săn sóc cẩn thận lắm. Nhưng thái-hậu yêu thương bệ hạ quá, ngài bế bồng bệ hạ mà ngủ. Trong khi ngài sợ gió, thường đóng cửa tẩm thất quá kỹ, đến nỗi không đủ khí để thở. Sau này bệ-hạ được đưa lên Tản-lĩnh theo học tiên-nương Bảo-Hòa, bệ-hạ lại ăn chay mấy năm liền. Thực vật chay không đủ nuôi cơ thể vốn suy nhược, lại phải luyện võ vốn cần ăn uống nhiều chất bổ dưỡng... Cuối cùng đưa đến bệ-hạ bị phong thấp. Tuy sư huynh Dương Bình trị phong thấp cũng như dương ủy (lời chú: bất lực sinh lý). Nhưng nay tuổi hơi cao, lại cần lao chính sự nhiều, thành ra cơ thể hư hao quá đáng.

Bà chỉ vào những viên thuốc đỏ:

– Bệ hạ ngự thuốc bổ tỳ-vị, ăn uống khoẻ, thì khí huyết mới sung mãn. Khí huyết sung mãn rồi, thì mới dùng thuốc mầu đen để bổ thận, tráng dương mà sinh hoàng nam.

Thiếu-Mai bỏ thuốc vào bụng hai con rồng, đậy nắp lại, rồi bưng chung trà lên uống; bà chấm tay vào chung trà rồi viết xuống án thư:

– « Trên nóc cung có người nằm. Họ là thị-vệ canh phòng phải không? ».

Nhà vua chấm tay vào nước viết:

– « Như vậy nó là gian tế rồi. Xin sư thúc bắt y xuất hiện đi ».

Thiếu-Mai cất tiếng nói lớn:

– Ỷ-Lan phu nhân đang tắm. Người là ai mà dám leo lên nóc cung nhìn trộm?

Nói rồi bà cầm con hổ bằng đá lớn hơn bàn tay để trên án thư ném lên nóc cung. Binh một tiếng, gỗ trên trần thủng một miếng. Con hổ đá chui tọt ra ngoài.

Nhà vua với Thiếu-Mai tung mình ra sân, đã thấy quan vũ-vệ hiệu úy cung Ỷ-Lan là Lê Huy đang chỉ huy đội chó bao vây một người đầu trùm kín bằng cái khăn đen, chỉ hở hai con mắt. Người này vung hai chưởng, bốn con chó bay tung ra xa, chết tức khắc. Vừa lúc đó công chúa Thiên-Ninh cùng đội nữ binh kéo tới. Tây-hồ thất kiệt, Long-biên ngũ hùng cũng dẫn đội võ sĩ tới. Đội nữ binh bao vây xung quanh gian nhân, dương cung hướng vào y. Đội võ sĩ vây vòng ngoài. Vòng thứ ba là thị vệ. Thiên-Ninh ra hiệu cho đàn chó ngừng xủa, rồi hỏi người trùm đầu:

– Người đầu hàng đi thôi, bằng không ta chỉ hô lên một tiếng, là nữ binh buông tên ngay.

Người trùm đầu cất tiếng cười khành khạch:

– Hừ! Triều Lý lập nghiệp bằng võ công. Nhà vua tự thị là học trò Tiên-nương Bảo-Hòa, thế mà lại dùng quân với chó bao vây ta. Võ đạo để đâu? Nếu các người muốn ta phục, thì hãy vào đây cùng ta chiết chiêu. Ha, ha, ha!

Người cầm đầu Tây-hồ thất kiệt là Trần Di cầm kiếm chỉ vào mặt gian nhân:

– Võ đạo của Đại-Việt ta chỉ có thể áp dụng với người, chứ với thú vật như mi thì không cần thiết.

Thích khách quát:

– Mi có phải là tên ăn mày Trần Di, tự xưng là Tây-hồ nhất kiệt đó không? Hừ! Ta không nói với tên ăn mày con.

Hoàng-Nghi, đứng hàng thứ ba trong Long-biên ngũ-hùng, nó tiến lên cung tay nói với thích khách:

– Lão tiên sinh. Thân thế lão tiên sinh cao biết mấy, tại sao phải trùm mặt. Lão tiên sinh nên mở khăn ra cho mọi người biết lão tiên sinh là ai đi.

Hoàng-Nghi, đứng hàng thứ ba trong Long-biên ngũ-hùng, nó tiến lên cung tay nói với thích khách:

– Lão tiên sinh. Thân thế lão tiên sinh cao biết mấy, tại sao phải trùm mặt. Lão tiên sinh nên mở khăn ra cho mọi người biết lão tiên sinh là ai đi.

– Ta không cần đến tên ôn con làng Thổ-lội tán tụng. Mi mới đọc được vài quyển sách mốc, mà đã làm bộ khích ông nội mi.

Hoàng-Nghi cười:

– Chỉ hai câu nói của tiên sinh, cũng khiến chúng tôi tìm ra căn cước tiên sinh ngay. Câu thứ nhất chứng tỏ tiên sinh biết gốc tích của Tây-hồ nhất kiệt. Câu thứ nhì tiên sinh biết gốc tích vãn sinh. Như vậy tiên sinh là người trong Hoàng-thành này rồi.

Nó hô đội võ sĩ Long-biên:

– Buông tên. Á ha, á hạ.

Hai mươi mũi tên cùng hướng thích khách. Y kinh hãi vội rút kiếm vung lên gạt, thì chỉ gạt được sáu mũi. Còn mười bốn mũi trúng các huyệt: hàm-yếm, hạ-quan, chương môn, nhân nghinh, tâm du, thận du, phong thị. Lạ thay tên chỉ chạm da, rồi rơi xuống. Mọi người nhìn rõ: tên không có mũi. Đầu tên là cục gỗ tròn như trái chanh.

Trần Ninh nói lớn:

– Thế nào! Tiên sinh có còn chê tam sư huynh của tôi là con nít nữa hay không? Nếu vừa chúng tôi bắn thực sự, bằng tên thực, thì giờ này tiên sinh là con nhím rồi!

Bỗng có tiếng quát thanh thoát:

– Đây là Hoàng-thành, ta là chúa Hoàng-thành, để ta bắt thích khách.

Nói dứt lời, một bóng vàng tung mình qua đội nữ binh, tay rút kiếm đưa vào cổ người trùm đầu. Mọi người nhận ra bà là Thượng-Dương hoàng hậu. Gian nhân trầm mình tránh khỏi, rồi vung bay bắt kiếm. Thượng-Dương đảo kiếm hướng vào ngực y. Y lộn người đi tránh, y đánh trả bằng một chưởng, trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Vương-phi Thiếu-Mai hô lớn:

– Khoan! Ngừng tay!

Rồi bà nhảy vào vòng vây vung chưởng đỡ chiêu của người trùm đầu. Bình một tiếng, cả hai đều bật lui ba bước, đứng gườm gườm nhìn nhau. Thiếu-Mai ung dung, nói năng ôn tồn như sư phụ dạy dỗ đệ tử:

– Chu-sa huyền âm chưởng. Này các hạ, với bản lĩnh tổng hợp Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng hợp với Huyền-âm chưởng, ta e trong thiên hạ không quá ba người làm được. Thân phận các hạ đâu có nhỏ? Tại sao các hạ lại phải trùm đầu? Các hạ hãy mở khăn ra cho mọi người biết các hạ là ai đi.

Người trùm đầu không trả lời, y chỉ lắc đầu, tỏ vẻ không muốn nói. Thượng-Dương hoàng hậu cầm kiếm chỉ vào mặt người trùm đầu:

– Như vậy mi là dư đảng Hồng-thiết giáo, ta phải bắt mi.

Nói dứt bà đưa kiếm vào ngực đối thủ. Người trùm đầu né mình tránh khỏi, rồi dùng chưởng phản công. Đấu được trên hai mươi hiệp, y đánh liền ba chưởng cực kỳ trầm trọng, kiếm của hoàng-hậu bật tung lên cao, y dùng một chiêu ưng trảo chụp hoàng-hậu nhắc bổng lên kẹp vào nách trái. Tay phải y để lên đầu bà:

– Tất cả đứng im, bằng không ta nhả chưởng lực, thì cái đầu này vỡ ngay.

Hoàng-hậu vẫn quật cường:

– Hoàng-thượng hãy dùng loạn tên bắn chết y đi, đừng vì thiếp mà để cho gian nhân sống.

Tất cả cung nga, thái giám, thị vệ đều phục Hoàng-hậu là người can đảm, có chính khí như nam nhi. Thấy Hoàng-hậu lâm nguy, động lòng cố cựu, Thường-Kiệt định nhảy vào cứu người yêu xưa, thì nhà vua ban chỉ:

– Tất cả đứng im, không được vọng động.

Ỷ-Lan đã mặc y phục xong, đang đứng lược trận. Nàng ghé miệng vào tai Thiếu-Mai nói nhỏ mấy câu. Thiếu-Mai gật đầu mỉm cười, rồi bước ra chỉ vào người bịt mặt:

– Các vị nghe đây! Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế ban chỉ bắt mọi người không được vọng động. Ta là vương phi của thái-sư, quốc-phụ Yên-vương bên Đại-Tống, vì vậy ta không phải tuân chỉ của hoàng-đế Đại-Việt. Người này thuộc dư đảng của ma giáo, bất cứ ai là người trong võ lâm Hoa-Việt cũng muốn tru diệt, cho nên ta phải giết y.

Bà nói với nhà vua:

– Bệ hạ! Hoàng-hậu là người nghĩa khí, sẵn sàng hy sinh cho đại nghĩa, nay tôi tru diệt ma quỷ, hậu có tuẫn quốc, thì xin bệ hạ miễn trách.

Nói rồi bà vận đủ mười thành công lực phát chiêu Lôi-đả Ân-tặc trong Sài-sơn chưởng. Chưởng chưa ra hết, mà mọi người đều cảm thấy nghẹt thở. Đàn chó bị sức ép của chưởng lực, bật tung ra xa. Gian nhân kinh hãi, vội tung Dương hậu lên cao, dùng cả hai tay cùng phát chưởng đỡ. Bình một tiếng, người y với Thiếu-Mai lảo đảo bật lui liền ba bước. Một bóng xanh xẹt tới nhanh như điện, tung mình lên cao đỡ lấy hoàng hậu.

Người bịt mặt thấy nếu để mất con tin, thì tính mạng y khó toàn. Y tung một chưởng mạnh như núi lở băng tan vào bóng xanh với hoàng-hậu. Bóng xanh vội lăn tròn xuống đất tránh thế chưởng ác liệt. Nếu chưởng đó trúng bóng xanh, thì cả bóng xanh với hoàng-hậu đều tan xương nát thịt. Thiếu-Mai phát một chưởng vào thích khách, bắt buộc y phải cho chiêu chưởng đổi chiều để đỡ chưởng của bà. Bình một tiếng, người y bật lui ba bước. Thiếu-Mai lại đánh liền ba chưởng đẩy y lùi ra sau. Thế là hai người thi diễn cuộc đấu.

Bấy giờ người ta mới nhìn lại, xem bóng xanh là ai, mà dám liều mạng cứu hoàng-hậu? Thì ra đó là Ỷ-Lan. Ỷ-Lan trao hoàng-hậu cho công chúa Thiên-Ninh, tay nắm chắc đốc kiếm đứng lược trận. Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt đứng xung quanh nàng để hộ vệ.

Thiếu-Mai với người trùm đầu vẫn đấu với nhau, bất phân thắng bại. Nhà vua hỏi Lý Thường-Kiệt:

– Thái bảo. Người thấy sao? Trận chiến sẽ nghiêng về ai?

– Tâu bệ hạ, gian tế là người đã phối hợp Chu-sa độc chưởng với Huyền-âm độc chưởng. Chu-sa dùng Hồng-thiết công, một thứ nội công dương cương thuộc tà môn. Huyền-âm dùng nội công âm nhu, chính đại quang minh. Cho nên võ công của y trong cương có nhu, trong chính có tà, rất khó đối phó. Hơn nữa dường như y đã già, công lực cao thâm khôn lường.

– Trẫm nghe nói võ công của U-bon vương do Yên-vương phi dạy cho. Trong trận đánh sang Tống, U-bon vương thắng chưởng môn phái Thiếu-lâm. Thế sao vương phi không đàn áp được gian tế?

– Tâu, vương phi dạy U-bon vương là dạy hồi thơ ấu, chứ phi không phải là sư phụ Vương. Trong trận Trường-yên,Vương được thái sư phụ là Phan lão sư cùng Ngô lão sư dồn bẩy mươi năm công lực cho, nên công lực Vương mới mạnh đến nghiêng trời lệch đất. Còn Yên-vương phi, thì người chỉ chú trọng vào y đạo hơn, nên công lực không tiến làm bao.

Thình lình người bịt mặt đánh liền ba chưởng như vũ bão, rồi tung mình nhảy ra khỏi vòng vây. Nhưng khi y vừa đứng xuống, chạy về trước thì một mũi kiếm chỉ ngay vào ngực y. Suýt nữa y tự lao người vào mũi kiếm. Quá kinh hoảng y uốn cong người lộn về sau ba vòng, rút cuộc y lại trở về vị trí cũ. Nhưng khi y vừa chạm chân xuống đất thì mũi kiếm vẫn theo y như bóng với hình. Y nằm xuống đất lăn mình hai vòng, rồi dùng một thức ưng trảo đoạt thanh kiếm của một nữ binh, đưa lên gạt kiếm của đối phương.

Nói thì chậm, chứ động tác tung mình chạy, lộn trở lại, đoạt kiếm của y nhưng như điện chớp, còn người tấn công y càng nhanh hơn. Hiện diện hàng mấy trăm người thấy y gặp hung hiểm đều nín thở. Bây giờ mọi người mới vỗ tay hoan hô, và dưới ánh trăng mười tư, người ta nhìn thấy kẻ tấn công y là Ỷ-Lan. Trên từ nhà vua cho đến các võ quan, cùng thị vệ đều ngẩn người ra tự hỏi:

– Võ công Ỷ-Lan cao đến thế ư?

Ngoại trừ Lý Thường-Kiệt, ông gần Ỷ-Lan lâu, nên biết rõ trình độ võ công của nàng. Nhà vua tuy biết Ỷ-Lan là học trò vua bà Bình-Dương, nhưng tuyệt ngài không ngờ võ công nàng lại cao thâm đến trình độ đó.

Người trùm đầu với Ỷ-Lan đang giao đấu. Kiếm pháp của hai người đều nhanh đến không thể tưởng tượng nổi. Dưới ánh sáng của mấy trăm ngọn đuốc, người ta chỉ thấy hai trái cầu bạc cuốn lấy nhau, không ai phân biệt được Ỷ-Lan với thích khách.

Những võ quan giỏi kiếm thuật như phò mã đô đốc Hoàng Kiện, hoàng-tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn đều kinh hãi, tự hỏi: Ỷ-Lan học kiếm với vua bà Bình-Dương từ bao giờ mà kiếm pháp, cũng như nội công đã đến trình độ này.

Phò mã Hoàng Kiện là chồng của công chúa Động-Thiên hỏi Thường-Kiệt:

– Anh cả, thích khách là ai, mà kiếm thuật đến trình độ em chưa hề thấy qua?

Nguyên đô đốc phò mã Hoàng Kiện vốn xuất thân từ cửa Tôn Đản, ông là một tay kiếm thuật nổi tiếng tại triều Chương-thánh Gia-khánh thời bấy giờ. Do ảnh hưởng của sư phụ Tôn Đản, nên ông thích dùng tiếng bình dân xưng hô hơn là xưng hô theo lễ nghi triều đình. Thường-Kiệt trả lời:

– Từ trước đến giờ, phái Mê-linh nức danh Hoa-Việt với Long-biên kiếm pháp. Sau đó tới Đông-a kiếm và Sài-sơn kiếm. Người này xử dụng Sài-sơn kiếm bằng nội lực Hồng-thiết, pha với Huyền-âm, thì chắc y là dư đảng Hồng-thiết giáo rồi. Nhưng, không biết y là ai.

Hoàng tử Chiêu-Văn nói với Thiếu-Mai:

– Sư thúc! Nguy quá, Mê-linh kiếm pháp lấy mau thắng chậm, rất tổn hao nội lực; cho nên phàm khi gặp đối thủ cao tay, thì phải tấn công như mưa dồn, như sóng vỗ, để thắng ngay trong trăm chiêu. Nay Ỷ-Lan phu nhân tuổi còn trẻ, công lực không làm bao, trong khi đối phương đã cao niên, công lực thâm hậu vô cùng, mà kéo dài như vậy thì phu nhân nguy mất.

Thiếu-Mai lắc đầu:

– Ỷ-Lan phu nhân là người thông minh tuyệt đỉnh, chắc phu nhân cũng hiểu như cháu. Nhưng dường như từ ngày học kiếm, đây là lần đầu tiên phu nhân xử dụng nên lúc đầu chưa thuần. Thành ra đôi khi đáng lẽ địch mất căn bản, chỉ việc đánh hai chiêu là y mất mạng, trong khi đó phu nhân chần chờ, do vậy y lấy lại được thăng bằng.

Quả thế. Đấu được trên trăm hiệp, chiêu thức của Ỷ-Lan đã thuần thục, nhưng công lực nàng cạn dần, chiêu số bắt đầu chậm lại. Trong khi đó kiếm pháp của người bịt mặt càng áp đảo dữ dội.

Bỗng Thiếu-Mai nhớ lại một chuyện, nàng la lớn:

– Này Đinh Hiền, ta tưởng trong trận chư vương nổi loạn mi đã chết rồi, không ngờ mi còn sống đến ngày nay.

Bà nói lớn cho mọi người nghe:

– Gian nhân này có tên là Đinh Hiền, y thuộc phái Sài-sơn nhà tôi. Kể về vai vế, y ngang vai với phụ thân tôi. Y là học trò của Lê Ba. Sau lại học với Đinh Kiếm-Thương. Thời Thuận-thiên, y nổi danh đệ nhất kiếm thuật trong Hồng-thiết giáo. Trong hơn mười năm không ai địch lại y. Sau chỉ mình vua bà Bình-Dương thắng được y mà thôi. Kể từ khi chư vương nổi loạn, y biến mất. Ai cũng tưởng y chết rồi. Có ngờ đâu y vẫn còn sống trên thế gian này.

Trải qua năm mươi hiệp nữa, kiếm chiêu của Ỷ-Lan càng chậm. Đinh Hiền đẩy ra hai chiêu như sét nổ, mong kết liễu tính mệnh nàng. Thường-Kiệt đứng ngoài, định nhảy vào can thiệp, thì từ một bụi hoa gần đó phát ra tiếng « hừ », rồi vật gì to bằng quả dưa bay rất nhanh bật lên tiếng vèo lớn, hướng Đinh Hiền. Đinh-Hiền vội thu kiếm về gạt « ám khí ». Kiếm chém trúng vào vật kia đến bộp một tiếng, vật đó đứt làm đôi văng ra xa. Nhưng lực đạo « ám khí » quá mạnh làm kiếm vuột khỏi tay Đinh-Hiền bay ra ngoài vòng vây cắm xuống đất, chuôi rung rung không ngớt. Mọi người nhìn lại xem ám khí gì là lớn đến như thế? Thì ra cái đầu chó luộc chín.

Người người bật lên tiếng kêu:

– Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng.

Đúng ra, trong lúc kiếm vuột khỏi tay đối thủ, mà Ỷ-Lan đưa một chiêu nữa thì y đã mất mạng. Nhưng một là nàng mệt mỏi, hai là nàng chưa kinh nghiệm, chậm mất một chút, khiến Đinh Hiền đủ thời giờ lấy lại bình tĩnh, y tung vào người nàng một chưởng, rồi lộn liền về sau ba bước, tay y đã đoạt được thanh kiếm khác. Y lại tấn công Ỷ-Lan.

Ỷ-Lan đang kinh hãi, thì có tiếng sư phụ Viên-Chiếu dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai:

– Có sư phụ với sư bá lược trận. Con đừng sợ. Hãy không tâm vận khí, rồi ra chiêu.

Nghe tiếng sư phụ, Ỷ-Lan mừng vô kể, công lực lại phục hồi. Từ lúc nhập cuộc, theo thói quen, Ỷ-Lan dùng nội công âm nhu của Mê-linh kiếm pháp, mà không xử dụng đến Vô-ngã tướng Thiền-công. Nghe sư phụ nhắc, nàng vội không tâm, bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, rồi phát chiêu. Chiêu số trở thành chậm chạp, nhưng kình lực phát ra kêu lên những tiếng vi vu, mạnh như núi lở, băng tan. Thình lình hai kiếm chạm nhau đến choang một tiếng. Cả Ỷ-Lan lẫn Đinh Hiền cùng bật lùi liền hai bước.

Nhà vua nói với Thiếu-Mai:

– Sư-thúc! Xin sư thúc can thiệp. Nếu dùng chiêu số ảo diệu thì Ỷ-Lan có thể cầm cự được, chứ đấu nội lực thì e nguy mất.

Thiếu-Mai nói nhỏ:

– Bệ hạ hãy nhìn kià! Ỷ-Lan đang xử dụng Thiền-công để đấu với Hồng-thiết công kìa. Ban nãy phu nhân dùng nội công âm nhu đối chọi với nội công Hồng-thiết, thì ai mạnh người ấy được. Bây giờ phu nhân dùng Thiền-công là công lực nhà Phật đấu với nội công Hồng-thiết là nội công tà ma. Nhờ phép Phật mà trị ma, thì tà ma phải bại. Bệ hạ đừng lo.

Ngoài đấu trường, hai đối thủ cùng vận hết công lực ra đấu với nhau. Kẻ không biết võ nhìn kiếm chiêu chậm chạp, tưởng hai người là thầy phù thủy bắt tà vậy. Vì Thiền-công phát ra đối đa, nên quần áo Ỷ-Lan bay phơi phới dưới ánh trăng, trông nàng như một Hằng-Nga đang múa khúc Nghê-thường.

Bỗng Ỷ-Lan đẩy một chiêu kiếm hướng cổ Đinh Hiền. Đinh Hiền cũng đưa kiếm đỡ. Bộp một tiếng, hai mũi kiếm đụng nhau, rồi dính chặt với nhau. Hai bên cùng vận hết nội lực để đấu một trận sinh tử. Mặt Ỷ-Lan nóng bừng, trên đầu nàng có khói trắng bốc lên, còn đầu Đinh Hiền bị bịt kín, không ai biết tình trạng ra sao. Người đứng ngoài đều sợ thay cho Ỷ-Lan, vì trận này sẽ không có kẻ thua người thắng, mà sẽ có kẻ chết, người tàn tật.

Thời gian qua, ước gần một khắc, thanh kiếm của Ỷ-Lan hơi cong lại. Nhà vua cuống lên, định ban chỉ cho Thường-Kiệt can thiệp, thì thình lình có tiếng chó sủa oăng oẳng trên không, rồi một con chó quay tròn trên trời hướng Đinh-Hiền bay tới. Không hổ là đại cao thủ, y vẫn bình tĩnh dùng tay trái chụp con chó. Con chó bị ai đó túm lấy cổ ném lên cao, nó quá kinh hãi, nên khi Đinh Hiền chụp lấy nó, nó há miệng đợp một miếng vào cánh tay y. Đau quá, Đinh quật con chó xuống đất. Con chó càng sợ hãi hơn, nó nghiến chặt hai hàm răng, làm Đinh Hiền bị đứt một miếng thịt. Thịt đứt, chân khí theo máu thoát khỏi cơ thể, công lực bị yếu đi, Đinh bật tung về sau, ngã lăn đi hai vòng. Ỷ-Lan đã có kinh nghiệm, nàng tung mình theo dùng chuôi kiếm điểm vào huyệt Đại-trùy của y. Y tê liệt khắp người, nằm dài dưới đất.

Sau khi dùng hết lực trong một trận đấu thập tử nhất sinh, Ỷ-Lan mệt quá, người nàng loạng choạng muốn ngã. Nhà vua xẹt tới toan đỡ nàng, thì từ đâu có hai vật nhỏ quay rất nhanh, nhưng bay rất chậm, khi vật đó sắp chạm vào người Ỷ-Lan thì vỡ tan thành bột chụp lên người nàng. Một mùi thơm như hương sen thoang thoảng bay khắp quảng trường. Ỷ-Lan cảm thấy khoẻ vô cùng. Nàng biết sư phụ Viên-Chiếu đã tung thuốc trợ sức cho nàng, còn sư bá Mộc-tồn đã ném đầu chó, ném chó cứu nàng. Nàng hướng vào bụi hoa, lên tiếng:

– Sư bá, sư phụ! Phật-giá sư bá, sư phụ quang lâm từ bao giờ vậy?

Nhưng khi nàng tới bụi cây thì không có ai cả.

Thị-vệ trói Đinh Hiền lại giải đến trước nhà vua. Thiếu-Mai giật cái khăn trùm đầu Đinh Hiền ra, mọi người đều bật lên tiếng:

– Ủa!

– Ối chà!

– Trời ơi!

– Úi trời ơi đất ơi.

Nguyên y là Nguyễn Bông.

Thường-Kiệt lắc đầu, nói với Thiếu-Mai:

– Sư thúc, cháu thấy y không phải là Đinh-Hiền. Thời Thuận-thiên y đấu kiếm với vua bà Bình-Dương, y bị vua bà thích lên trán một vết thẹo tròn. Còn Nguyễn Bông thì không có thẹo.

Công chúa Thiên-Ninh nhớ lại những lời trong tờ biểu của Ỷ-Lan gửi hoàng tử Hoàng-Chân, Chiêu-Văn mang về rằng: Mộc-tồn hòa thượng đã khám phá ra Nguyễn-Bông cau mặt mà trán bất động, da má không có vết nhăn, như vậy y dán một lớp da giả lên. Nàng tiến đến gần, dùng ngón tay bẹo má y, lập tức hai miếng da bong ra, mặt y bầu, bây giờ trở thành dài. Nàng lại lột da dán trên trán y, trán y lại hiện vết theo dài.

Bây giờ những người lớn tuổi hiện diện, mới thấy rõ Nguyễn Bông là Đinh Hiền. Thường-Kiệt khám trên người Nguyễn Bông, thì thấy có mấy viên thuốc to bằng quả chanh. Ông trao thuốc cho Thiếu-Mai:

– Xin sư thúc biện biệt xem đây là thuốc gì vậy?

Thiếu-Mai bóp viên thuốc ra ngửi, rồi nói với nhà vua:

– Mừng bệ hạ. Thì ra Ðinh Hiền nấp trên nóc cung Ỷ-Lan, định bỏ thuốc vào nước tắm. Nếu Ỷ-Lan tắm nước có thuốc này vào thì mồ hôi không thoát ra được, hóa ra thuốc của Mộc-tồn hòa thượng thành vô hiệu.

Ỷ-Lan cung tay:

– Đa tạ sư thúc. Trong lúc đấu kiếm, mồ hôi cháu thoát ra còn hơn tắm nữa.

Thường-Kiệt ban lệnh cho thị vệ, cung nga, thái giám, ai về cung người ấy. Còn Đinh Hiền, ông truyền mang trao cho Khu-mật viện lấy khẩu cung.

Không thấy Thượng-Dương hoàng hậu, nhà vua hỏi công chúa Thiên-Ninh:

– Mẫu hậu đâu rồi?

– Tâu phụ-hoàng, người sang cung Thiên-Cảm vấn an Thái-hậu.

Nhà vua đầy vẻ lo lắng nói với Thiếu-Mai:

– Sư thúc! Cháu dám cản gan thỉnh sư thúc sang cung Thiên-Cảm chẩn mạch cho hoàng-hậu. Cháu nghĩ lại, tự cảm thấy mình có điều không nên không phải với hậu. Cháu hối hận, vì suốt mười mấy năm sống với hậu, mà cháu không hiểu hậu tý nào cả. Nguyên do bởi ông, bác của hậu làm càn, nên cháu luôn nghi ngờ hậu. Người xưa nói: khi nhà có sự mới biết con hiếu, khi nước có biến mới biết tôi trung. Hôm nay gian tế lộng hành, dù biết rằng võ công mình thua đối thủ xa, hậu cũng dám rút kiếm ra bắt nó. Đến khi bị cầm tù, cái chết cầm chắc trong tay, hậu vẫn khảng khái chịu tuẫn quốc. Hỡi ơi! Cháu thực có lỗi với hậu.

Thiếu-Mai nhìn Ỷ-Lan, Thiên-Ninh, rồi bà lắc đầu thở dài. Nhà vua kinh ngạc hỏi:

– Sư thúc có gì lo lắng vậy?

– Không phải tôi lo lắng, mà sợ hãi nữa. Than ôi! Bệ hạ đã đến tuổi bốn mươi, cai trị thiên hạ cả chục năm qua, mà sao lại thiếu tinh tế như vậy nhỉ? Nếu đúng như bệ hạ luận ban nãy, thì sao bệ hạ có thể phân được kẻ trung người nịnh, giữ vững sự nghiệp tổ tiên?

Nhà vua giật mình, vì từ trước đến nay Thiếu-Mai luôn thanh thản, ôn nhu, chưa bao giờ phiền trách ai. Thế mà nay bà đưa ra lời cảm thán chỉ vì mình. Ngài hỏi lại:

– Xin sư thúc dạy rõ hơn một chút cho cháu hiểu ra lẽ.

– Tôi đã nghe nói nhiều về việc Dương hậu vô tình, bạc nghĩa với bệ hạ. Từ trước đến giờ những việc xẩy ra tại Hoàng-thành bà thường ôm gối lãnh đạm. Thế mà hôm nay, gian tế đang bị chó, thị-vệ bao vây. Bà muốn bắt y, thì chỉ cần hô một tiếng. Tại sao bà lại mạo hiểm vô lý như thế? Đó là một điều đáng ngờ. Võ công bà bình thường nhưng cũng thừa biết võ công gian tế cực kỳ cao thâm, vậy mà bà lại xông vào trận. Đó là hai điều đáng ngờ. Từ xưa đến giờ có bao giờ hậu mặc võ phục, đeo hộ tâm kính đâu? Có bao giờ hậu luyện võ trong đêm đâu? Thế mà sau tiếng báo động, hậu xuất hiện đầu tiên, ngay tức thời với võ phục, lưng đeo kiếm, nai nịt cẩn thận. Chứng tỏ hậu mặc võ phục từ trước, tức là biết trước có gian tế. Đó là ba điều đáng ngờ. Lại đến khi gian tế ra chiêu Tuyết-lạc sơn lĩnh, đánh thẳng về trước, đáng lẽ hậu phải xỉa kiếm vào giữa chưởng của y, thì lại vòng kiếm xuống dưới. Gian tế ra chiêu Tuyết-ủng sơn đầu, để hở bên hông trái, thì hậu lại nhảy sang phải, để cho y chụp. Như vậy rõ ràng Hậu cố ý để cho y bắt làm con tin. Đó là bốn điều đáng ngờ. Nếu bệ hạ đặt câu hỏi: tại sao hậu làm thế??? Tại sao??? Thì biết ngay.

Nghe Thiếu-Mai phân giải, không những mồ hôi nhà vua vã ra như tắm, mà chính Thường-Kiệt cũng rùng mình. Ông than thầm:

– Nghe tiên-nương nói, dường như hoàng-hậu có dính vào việc ám toán Ỷ-Lan. Nay tuy cơ thể ta không toàn vẹn, nhưng dù sao, giữa ta và hậu như ngó ý tuy lìa, nhưng tơ vương đâu đã dứt? Ta phải làm sao cứu hậu bây giờ?

Còn nhà vua, ngài than thầm:

– Đúng rồi! Thì ra Dương hậu sai Nguyễn Bông đem thuốc đi ám hại Ỷ-Lan. Có lẽ bà cũng đích thân tham dự vào phần đầu độc, nên mới mặc võ phục. Hoặc bà định vượt Hoàng-thành ra ngoài hội họp sau khi Nguyễn Bông đầu độc thành công. Rồi khi thấy Nguyễn Bông bị bắt, bà giả xông vào bắt y, nhưng thực ra lấy thân mình làm con tin, đế cứu y. Bà thực là xảo quyệt, khi đã biết chắc ta phải tha gian tế để cứu bà, bà còn lên tiếng tỏ ra khẳng khải!

Năm hôm sau, Thái-bảo Lý Thường-Kiệt vào cung Ỷ-Lan diện tấu với Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế, cùng Ỷ-Lan những điều tối cơ mật do Đinh Hiền khai. Nhà vua cực kỳ sủng ái công chúa Thiên-Ninh, nên cuộc diện tấu này có cả công chúa tham dự.

Nội dung như sau:

« Trong cuộc khởi loạn của chư vương, Đinh Hiền giết một đệ tử, bằm mặt nát ra, rồi lấy quần áo của y mặc vào. Cho nên khi quan quân kiểm tra xácgiặc, tưởng y đã chết rồi. Sau đó y cải danh là Nguyễn Bông cùng với ba trưởng lão sống sót Vũ Chương-Hào, Lê Phúc-Huynh, Đinh Kiếm-Thương uống máu ăn thề sống chết có nhau. Cả bốn người đều nhận thấy rằng dân chúng Hoa-Việt đã bị giết, bị khốn khổ biết bao năm vì Hồng-thiết giáo; bất cứ ai trong võ lâm Hoa-Việt khi nghe đến tên Hồng-thiết giáo đều kinh tởm, nên không thể nào tái lập giáo được nữa. Vả muốn tái lập giáo thì phải dùng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng khống chế võ lâm. Nhưng phái Đông-a đã chế ra phép phản Chu-sa, nhược bằng còn đem Chu-sa chưởng ra dùng thì có khác gì bưng tính mệnh dâng cho kẻ thù. Lại nữa phái Sài-sơn biết dùng nội lực trị vĩnh viễn Chu-sa độc chưởng cùng thuốc cấp thời để bệnh không phát trong một năm. Thuốc này bán tại khắp các dược phòng.

Nhưng phàm những người học Hồng-thiết kinh rồi, đều tham quyền cố vị, muốn áp đảo chúng nhân, muốn làm cho người người đều kinh sợ mình, nên bốn người sang Trung-nguyên tìm đến phái Trường-bạch để trao đổi võ công. Phái này cũng đang bị võ lâm Trung-quốc săn đuổi khốn khổ vô cùng. Thế là đôi bên họp nhau hợp hai thứ võ công làm một. Phái Trường-bạch lập tức tái xuất giang hồ gây rung động võ lâm Trung-nguyên. Bốn ma đầu trở về Đại-Việt với ý định sao đoạt được quyền, cai trị dân. Giữa lúc đó tể tướng Đương Đức-Thành đang âm mưu khuynh đảo Lý triều. Cũng đúng vào thời điểm này bọn hiếu chiến trong triều Tống muốn mở rộng Nam biên, đánh Đại Việt.

Thế là ba âm mưu lớn gặp nhau.

Về phía Tống, họ âm thầm dùng kế sách Ngũ-lôi để chiếm Đại-Việt. Họ biết rất rõ tham vọng của Dương gia, của bọn dư đảng Hồng-thiết giáo. Nhưng họ vờ như không biết, để lợi dụng.

Về phía dư đảng Hồng-thiết giáo, Đinh Kiếm-Thương, Vũ-Chương-Hào, Lê Phúc-Huynh, Đinh Hiền cũng biết rõ âm mưu Tống cùng gian ý của họ Dương. Họ quyết định trà trộn vào Dương phủ, nắm võ sĩ, nắm cận vệ, nắm gia tướng; với Tống, họ cho đệ tử ứng tuyển vào làm tướng trong các đạo quân Nam thùy; với Chiêm, họ lộng hành hơn. Họ đem những kiến thức về kinh-tế, canh-nông, giáo-dục, tổ chức binh bị của Tống của Đại-Việt ra giúp Chiêm, xúi Chiêm bỏ Đại-Việt theo Tống. Hay đâu, họ vào Chiêm mới biết con trai, con gái của giáo chủ Nhật-Hồ là Trần Đông-Thiên, Trần Quỳnh-Giao, tiềm ẩn ở đây từ lâu. Hai người thu đệ tử, tái lập Hồng-giáo, gây cơ sở rất vững chắc. Anh em Đông-Thiên đã phong cho năm đệ tử làm ngũ-sứ, mười đệ tử làm kỳ chủ. Hồng-thiết giáo cho người khống chế các trang trưởng, động trưởng người Việt, tổ chức Việt kiều trong mỗi trang thành một Hồng-hương. Bốnngười thấy nếu mình chỉ được triều đình Chiêm tín nhiệmmà không nắm được khối một phần ba dân Việt ở đây thì cũng vô ích. Chúng hội nhau với Đông-Thiên bàn chuyện thống nhất. Thế là Hồng-thiết giáo tộc Việt được tái lập. Đông-Thiên vẫn làm giáo chủ, Quỳnh-Hoa làm phó giáo chủ. Vũ Chương-Hào làm tả hộ giáo, Đinh Kiếm-Thương làm hữu hộ giáo. Lê Phúc-Huynh làm giáo chủ Đại-Việt, Đinh Hiền làm giáo chủ Quảng-Đông. Chủ trương của Hồng-thiết giáo là tìm cách đoạt ngôi vua Chiêm, vua Việt. Tại Chiêm, họ xui Chiêm vương gây hấn với Đại-Việt. Đinh Kiếm-Thương làm Đại-tư mã, y sẽ tìm cách xua hết binh tướng ưu tú của Chiêm ra trận cho Đại-Việt giết. Sau khi hủy lăng tẩm, đốt phá kinh đô Chiêm như thời vua Thái-tông đã làm, tất quân Đại-Việt rút. Bấy giờ Hồng-thiết giáo tung người ra lãnh đạo dân Chiêm « phục thù», tái lập quốc. Họ biến nước Chiêm thành một nước Hồng-thiết giáo. Đối với Đại-Việt họ chờ đợi: khi họ Dương cướp ngôi họ Lý rồi, quân Tống trở mặt kéo sang với ngọn cờ « Hưng diệt, kế tuyệt » hay « phù Lý diệt Dương ». Bấy giờ chúng mới đảo chính hạ họ Dương, kéo cờ đánh xâm lăng giống như Lê Hoàn hồi trước. Dĩ nhiên đứng trước cái họa ngoại xâm, võ-lâm, dân chúng Việt cùng nổi dậy, chịu dưới quyền lãnh đạo họ. Sau khi thắng Tống, họ đương nhiên thành anh hùng, hỏi ai dám chống đối? ại-Việt sẽ thành một nước Hồng-thiết nữa.

Còn về phiá Dương gia, họ mưu đồ cướp ngôi nhà Lý như sau: nội bộ, nhờ Thiên-Cảm hoàng hậu nắm thị-vệ, cung nga phía trong, Dương Đức-Thành làm tể tướng bên ngoài kết nạp văn vũ làm phe cánh. Họ âm thầm làm gian tế cho Tống, với ước vọng: sau khi cướp ngôi, Tống phong cho Dương Đức-Thành làm Nam-bình vương. Để thực hiện, Dương phủ tuyển mộ võ sĩ làm gia tướng. Đinh Kiếm-Thương, Đinh Hiền đổi tên ứng thí. Dĩ nhiên với bản lĩnh những bọn mãi võ giang hồ thì địch sao lại hai người này? Thế là hai người trở thành gia-sư của Dương Đức-Thành. Khi con gái Dương Đức-Thành được tấn phong hoàng-hậu, bà lấy quyền đem Đinh Hiền tức Nguyễn Bông giả làm thái-giám vào hầu hạ trong cung Thiên-Cảm, để làm chân tay. Đinh Kiếm-Thương thì âm thầm huấn luyện võ sĩ phủ tể tướng.

Vì vụ án Bắc-ngạn xẩy ra (xin xem Anh linh thần võ tộc Việt của Yên-tử cư-sĩ), âm mưu họ Dương bị bại lộ. Đinh Kiếm-Thương được họ Dương gửi sang Chiêm, giúp vua Chiêm luyện quân. Thương thành công. Y giúp Chế Củ đoạt ngôi vua, tổ chức cho Củ một đạo quân hùng mạnh, về kinh tế thì quốc sản súc tích.Chế Củ tôn y làm quốc-phụ, tước Cửu-chân vương. Tại Thăng-long chỉ còn Đinh-Hiền với cái tên Nguyễn Bông. Nhờ có kiến thức, cùng võ công, Đinh Hiền trải hai mươi mấy năm qua, dần dần y lên tới nhập-nội đô-tri rồi Bắc-ban chỉ-hậu rồi chi-hậu nội-nhân, tước tới hầu.

Sau khi Dương Đức-Thành bị cách chức, họ Dương tuy có mất quền, nhưng Thiên-Cảm hoàng hậu trở thành Thiên-Cảm thái hậu. Cháu của bà thành Thượng-Dương hoàng hậu. Phe Dương lại hưng thịnh lên, lại kết hợp với Tống, với Chiêm, định cướp ngôi. Rồi Dương-đạo-Gia leo lên tới chức tể tướng.

Đám Hồng-thiết giáo quyết định đổi kế hoạch: trong lúc họ Dương làm gian tế cho Tống để mưu cướp ngôi vua, thì Nguyễn Bông chờ đợi khi nhà vua đemquân Nam-chinh, y báo hết quân tình cho Chiêm, cuộc chiến sẽ kéo dài, quân trong nước gửi hết ra mặt trận. Nguyễn Bông cùng hoàng-hậu tổ chức binh biến, chiếm Hoàng-thành. Thái-hậu sẽ họp quần thần, truất phế nhà vua, lập một ấu quân lên thay. Bà đương nhiên buông rèm thính chính, bấy giờ bà sẽ loại hết những quan lại trung thành với triều Lý, bước cuối cùng là các quan sẽ truất phế ấu quân, tôn Dương Đạo-Gia lên thay.

Dĩ nhiên Dương lên thì Tống cũng sẽ kéo quân sang « Phù Lý, diệt Dương », bấy giờ đám Hồng-thiết giáo nắm quyền quân sự, hạ Dương xuống, phất caongọn cờ chống ngoại xâm... Âm mưu của họ tưởng đâu sắp thành, thì bị Ưng-sơn song hiệp, bị Mộc-tồn hòa thượng, bị Ỷ-Lan khám phá, phe Dương kẻ bị giết, người bị tù. Cuối cùng chân tướng y với Dương hậu bị lộ. Hy vọng cuối cùng của họ Dương với y là mong sao cho nhà vua không con, chờ khi nhà vua Nam chinh, là y với Thái-hậu tổ chức chính biến, truất phế ngài về tội không con, lập ấu quân lên thay. Chính vì lẽ đó, y với Dương hậu tìm đủ cách đánh thuốc độc Ỷ-Lan cùng các phi tần được nhà vua sủng ái. Hôm rồi y định bỏ thuốc vào nước tắm Ỷ-Lan thì bị bắt ».

Nghe Thường-Kiệt tâu xong, nhà vua suy nghĩ một lúc rồi phán:

– Ở đây có Ỷ-Lan, tiếng là phu-nhân, nhưng thực ra là một đại-học sĩ của trẫn. Thường-Kiệt với trẫm có nghiã vua tôi, có tình bạn học thời thơ ấu thì là gan là ruột của trẫm. Thiên-Ninh là người con trẫm kỳ vọng nhất, sủng ái nhất. Vậy trẫm hỏi thực: trẫm phải đối phó sao với Thái-hậu, Hoàng-hậu?

Ỷ-Lan tâu ngay:

– Bệ hạ miễn cho thiếp phải đưa ý kiến về vụ này. Vì từ khi chưa tiến cung, thiếp đã bị Dương gia hãm hại, lấn áp biết bao phen. Bây giờ chính Thái-hậu, Hoàng-hậu hại thiếp. Bất biết thiếp phát biểu gì, quần thần sẽ dị nghị phân vân.

Nàng chỉ vào Thường-Kiệt, Thiên-Ninh:

– Sơ bất gián thân. Sư huynh tuy có thâm tình với bệ hạ, nhưng đây là việc trong hoàng tộc, người cũng chẳng có thể phát biểu ý kiến. Còn Thiên-Ninh, lại không thể bàn luận vào vụ này. Bởi dù gì Thái-hậu cũng là tổ-mẫu, hoàng-hậu là đích mẫu. Luật bản triều không cho phép con, cháu kết tội người trên. Vậy bệ hạ nên hỏi Quốc-phụ là hơn.

Ỷ-Lan nhìn Thường-Kiệt, rồi mỉm cười một mình. Thường-Kiệt kinh ngạc hỏi:

– Phu nhân, thần có điều gì cổ quái chăng?

– Sư huynh ơi! Muội làm gì dám cười sư huynh. Muội thấy bao nhiêu tội trạng trong vụ này, sư huynh đổ lên đầu bọn Tống, bọn Hồng-thiết hết. Còn Dương hậu thì... vô tội.

Thường-Kiệt kinh hoảng, đưa mắt nhìn nhà vua:

– Phu nhân... phu nhân nghĩ thế thôi, chứ thần đâu có thiên lệch.

Quả tình Thường-Kiệt biết rõ chính phạm là Thượng-Dương hoàng hậu, nhưng nghĩ lại mối tình xa xưa với bà, cũng như những lần trước, ông cố tình lướt qua tội trạng của cố nhân. Ông nghĩ thầm:

– Không lẽ mối tình của mình với Hồng-Hạc xẩy ra khi Ỷ-Lan chưa ra đời, mà sao nàng biết được?

Đến đó, có thái-giám vào tâu:

– Quốc-phụ, Quốc-mẫu giá lâm.

Cả bốn người vội chỉnh đốn y phục, ra khỏi cung Ỷ-Lan, đã thấy Khai-Quốc vương với vương-phi Thanh-Mai vừa xuống kiệu.

Lễ-nghi tất. Trà nước bầy ra.

Trong khi vương phi Thanh-Mai nắm tay Ỷ-Lan, Thiên-Ninh để ngồi bên cạnh bà. Bà vuốt tóc Ỷ-Lan:

– Trời đem Ỷ-Lan cho dân Việt. Ỷ-Lan là học trò của bồ-tát Viên-Chiếu, của vua bà Bình-Dương có khác. Những kế sách cải tổ chế độ tá điền, chủ điền, giảm tô, cấm giết trâu, khai hoang, giảm chi nội cung... lúc đầu thân-vương, quan lại, chủ điền nghị luận, chỉ trích tưởng không thi hành được. Nhưng tá điền, dân nghèo thích lắm. Cái nạn tá điền bị ức hiếp nổi lên giết chủ điền đã tuyệt hẳn. Trên toàn quốc không còn ăn mày nữa.

Bà tát yêu Thiên-Ninh:

– Chà! Cháu gái thực giỏi, phụ hoàng trao cho cháu nhiệm vụ theo dõi kiểm soát việc giảm tô cho tá điền, cấm giết trâu, lại khuyến khích phá hoang. Đi đâu cũng thấy người người ca tụng rằng trên từ các quan, cho tới chủ điền, tá điền đều răm rắp tuân hành. Suốt sáu tháng qua toàn quốc chỉ có ba vụ trộm trâu, nhưng bắt được ngay thủ phạm. Mùa vừa rồi trúng lớn. Nhà nhà lúa đầy cót. Giỏi, cháu giỏi.

Nhà vua hỏi Quốc-phụ:

– Không biết Quốc-phụ quang lâm có điều chi dạy dỗ thần nhi.

Khai-Quốc vương thở dài:

– Thần cầu kiến bệ hạ chỉ vì vụ án Đinh Hiền. Thần thấy các quan có ý hướng muốn xử Thái-hậu như Lã hậu đời Hán, Vũ hậu đời Đường. Thần thấy không thể, và không nên. Chúng ta chỉ xử người để cắt đứt mối nguy hiểm phản loạn. Nay thì mối nguy đó đã bị phá rồi, ta nên xử nhẹ tay thôi. Thiên-Cảm thái hậu là đích mẫu của bệ hạ, lại là người tiên-đế sủng ái cùng cực. Thượng-Dương hoàng hậu là người tiên-đế tuyển cho bệ hạ. Vì vậy thần nghĩ: bệ hạ cho gửi bản cung từ của Nguyễn Bông đến cung Thiên-Cảm, Thượng-Dương. Thái-hậu, hoàng-hậu đọc xong, tự hậu sẽ không dám có hành vi gì khác nữa. Còn Đinh Hiền, hãy đem ra cánh đồng trước chùa Thánh-chúa chém đầu răn chúng.

– Thần nhi tuân chỉ của Quốc-phụ.

Ghi chú, Sau khi đọc bản cung từ của Đinh Hiền, tức Nguyễn Bông, Thiên-Cảm thái hậu uống thuốc độc tự tử. Bà có để lại một chỉ dụ dặn nhà vua: bao nhiêu tội trạng bà chịu hết, xin ân xá cho Thượng-Dương hoàng hậu cùng thân thuộc họ Dương. Sự kiện này không thấy ghi trong ĐVSKTT đã đành, mà ngay bộ VSL cũng không thấy chép, trong khi QTNC và TTCTGCK lại chép rất chi tiết. Có lẽ nhờ vào vị thế làm nguyên soái đánh Đại-Việt, nên Quách Quỳ, Triệu Tiết được đọc tất cả các văn kiện mật của Khu-mật viện Tống, mà biết chi tiết này.

Còn Nguyễn Bông thì VSL không ghi, ĐVSKTT chép như sau:

...Qúy-Mão (Chương-thánh Gia-khánh thứ năm), Tống Gia-hựu năm thứ tám (1063). Bấy giờ nhà vua tuổi đã cao, bốn mươi mà chưa có con trai nối dõi. Ngài sai chi-hậu nội-nhân Nguyễn Bông cầu tự ở chùa Thánh-chúa, sau đó Ỷ-Lan phu nhân có thai, sinh thái tử Càn-Đức tức vua Nhân-tông. Thế truyền... Vua muốn có con trai, sai Bông cầu tự ở chùa Thánh-chúa. Nhà sư dạy cho Bông thuật đầu thai thác hóa. Bông nghe theo. Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy là đồng Bông. Chùa ở xã Dịch-vọng, huyện Từ-liêm. Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn (hiện thuộc huyện Từ-liêm, Hà-nội)...

Vì sử chép quá vắn tắt, nên người sau thắc mắc rằng: vua Thánh-tông nổi tiếng là một nhân quân, việc Nguyễn Bông thác hóa làm con ngài, thì là việc y tỏ lòng hiếu kính với ngài, mà tại sao ngài lại sai chém y?

Còn thần tích Ỷ-Lan lại chép thêm:

«...Nhà sư Đại-Điên (ghi chú: Đinh Kiếm-Thương đi tu, pháp danh là Đại-Điên) ở chùa Thánh-chúa bảo Bông trở về nấp trong buồng tắm Ỷ-Lan. Một hôm Ỷ-Lan tắm thì bắt được Bông còn ẩn trong buồng. Vua Thánh-tông sai đem Bông đi chém. Khi qua chùa Thánh-chúa, Bông xin vào chùa để trách sư. Sư cười trả lời: Nếu không hủy thân này thì sao đầu thai được. Bông hiểu mưu của sư, và vui vẻ chịu chết...» Tất cả sự thực vụ này, chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà là biết rõ từng chi tiết mà thôi.


Kiếm Hiệp 4.0
Phiên bản dành cho Android tại đây!
Hồi (1-50)


<