Vay nóng Homecredit

Truyện:Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử - Hồi 01

Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử
Trọn bộ 61 hồi
Hồi 01: Sách Lược Trấn Bắc
3.80
(5 lượt)


Hồi (1-61)

Siêu sale Lazada

Bấy giờ là niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 (1258) đời vua Thái Tông nhà Trần. Tháng 12, thái sư Mông cổ Ngột Lương Hợp Thai thống lĩnh 20 vạn quân, gồm 10 vạn Lôi kỵ, 10 vạn hàng binh Đại lý tiến đánh Đại việt.

Hưng Đạo vương thiết kế:

“ Binh tướng Mông cổ đều là Kị binh, thiện chiến, hung dữ. Vũ khí chính của họ là cung-tên. Từ tướng dến quân của họ đều sống trên vùng Thảo nguyên cực bắc, đồng cỏ mênh mông. Khí hậu vùng cực Bắc quanh năm lạnh đến xé da, cắt thịt. Người ngựa đều chịu lạnh rất giỏi. Chiến thuật của họ sở trường về dàn quân trên những vùng đất khô, trên cánh đồng rộng. Gần đây sau khi đánh sang Tây vực, họ chế ra máy bắn đá phá thành. Vì vậy họ tung hoành khắp Kim, Liêu, Tống, Tây hạ, và mấy chục nước Tây vực không nơi nào đương nổi. Trong lần thiết triều, hồi họ mới tới Bắc cương, thái sư (Trần Thủû Độ) đã giảng giải rất kỹ về lịch sử, phong tục, tồ chức chính trị, luyện quân cùng chiến² thuật của họ. Chúng ta đều thuộc nằm lòng rồi. 
Chính sách của Thái Tổ Hốt Tất Liệt là: mỗi khi đánh vùng, một thành, họ kêu gọi quan lại, tướng sĩ, dân chúng đầu hàng. Nơi nào tuân theo thì họ cấm quân sĩ tuyệt đối không được hãm hiếp, giết người, cướp của, đốt nhà. Quan lại, binh tướng họ vẫn cho tồn tại. Họ sẽ dùng binh tướng đầu hàng làm tiên phong đánh các vùng khác. Quan lại, tăng lữ phải đốc thúc dân chúng cung ứng lương thảo, cùng người lao dịch cho họ. Vì vậy họ không cần tiếp vận lương thảo từ Mông cổ sang.  
Bây giờ họ sang đánh ta, ta phải đối phó ra sao?   
“Vô hiệu sở trường của họ.Biến sở trường của họ thành sở đoản. Dùng sở trường của ta.Biến sở đoản của ta thành sở trường.” 
Ta phải áp dụng bẩy điều: 

Một là, về chiến thuật, tuyệt đối ta không dàn quân đánh với họ. Nếu ta cũng dàn quân đối địch với họ là đem sở đoản của mình, đấu với sở trường của họ. Địa thế của ta, đường của ta từ Bắc cương về Thăng long nhỏ hẹp, chỉ cho phép kị binh đi hàng một, đi chậm, không thể phi nhanh. Trên đường có nhiều cầu nhỏ, kị binh không thể qua. Aáy là không kể nhiều đoạn lầy lội, ngựa bị lún chân. Địa thế khiến kị binh của họ không còn tung hoành được.

Hai là, khí hậu của ta thấp nhiệt, muỗi, vắt, sâu, bọ nhiều. Người ngựa của họ vốn sống ở Thảo nguyên lạnh lẽo, không thể chịu nổi khí hậu, đầy đặc lam chướng của ta. Người của họ chỉ ăn thịt, nay sang ta phải thì thịt hiếm, họ phải ăn cơm, cá, tôm, rau, đậu. Họ không có khả năng dánh cá, bắt tôm. Người, ngựa của họ ăn rau, đậu, cỏ của ta, đầy sâu bọ, kiến ruồi. Cả người, ngựa uống nước có cung quăng, đỏng đảnh độc. Chỉ cần mươi ngày, chậm lắm là một tháng thì không cần đánh, thời khí, lam chướng, bệnh tật… giết giặc giùm ta.

Ba là, hiện ta không có những thành cao, hào sâu, đóng quân trấn giữ. Sở trường phá thành, công kiên của họ một lần nữa trở thành vô dụng. Trong khi đó, toàn quốc, mỗi làng-ấp của ta ngoài có hào sâu, trong có lũy tre bao bọc. Kị binh của họ không thể dàn ra tấn công, sở trường của họ trở thành sở đoản. Khi kị binh phải rời ngựa, thì sức chiến đấu thua bộ binh, lại càng thua nông dân của ta vốn lội bùn, bơi sông rất giỏi.

Bốn là, với thói quen, Mông cổ đi đến đâu dùng quan lại, dân chúng cung đốn lương thảo. Lương thảo 20 vạn người ngựa do vua quan Đại lý mới đầu hàng cung đốn chỉ có giới hạn. Họ nghĩ rằng đánh sang ta, họ sẽ dùng quan lại đầu hàng ép dân chúng cung đốn, hoặc cướp lấy. Nhưng lương thảo của ta đều cất rải rác ở làng xã. Vì vậy ta cần kéo dài thời gian, lẩn tránh, đợi lương thảo của họ cạn; muỗi, ruồi, lam chướng, sốt rét đánh binh tướng của họ bệnh tật, mệt mỏi; ta thắng họ dễ dàng.

Năm là, ta dẫn dụ cho họ vào sâu trong lãnh thổ, họ phải dàn quân ra đóng đồn phòng vệ. Còn, ta phân tán tướng sĩ về các trang, ấp, huấn luyện dân chúng, cùng dân chúng chiến đấu giữ làng. Ta biến cả nước là thành, toàn dân là binh. Rồi ta quan sát, thấy địch đi lẻ lẻ thì tấn công. Tấn công xong lại phân tán. Giặc không biết ta ở đâu. Như vậy kị binh trở vô dụng.

Sáu là, đợi cho giặc mệt mỏi, ta xuất quân bao vây đánh các đoàn quân đóng bảo vệ đường từ biên giới về Thăng long. Chính sách bắt hàng quan cung đốn lương thảo không thành. Đem quân đi cướp lương của dân thì gặp phải sức kháng cự của làng xã. Lương tiếp viện hoặc bị cạn, hoặc đường vận chuyển bị chặn. Lương tuyệt thì quân tan.

Thứ bẩy, Mông cổ không quen thủy tính, ta dùng Thủy quân lưu động chuyển quân, đánh cắt đường tiếp vận; hoặc tập trung quân tấn công. Ngựa của họ không thể lội ruộng. Ta dùng ngưu binh đánh kị binh. Đó là dùng sở trường của ta, đánh sở đoản của họ”.

Sách lược định rồi, triều đình, hậu cung, quan lại, vợ con tướng sĩ … phân tán vào các làng xã. Triều đình lại truyền lệnh cho dân chúng di tản khỏi Thăng long. Nhưng vì một là dân chúng tiếc của, hai là trì nghi, ba là chậm chạp. Vì vậy khi giặc tới Thảo lâm, mà dân Thăng long vẫn còn phân nửa chưa di tản.

Hưng Đạo vương lệnh cho:

– Vũ Uy vương Nhật Duy trấn nhậm vùng Bắc cương, bao gồm từ biên giới tới Kinh bắc. Nhiệm vụ chính giai đoạn đầu là làm chậm bước tiến của giặc. Giai đoạn hai là phục binh đánh viện quân, cùng các đoàn tiếp vận lương thảo.

– Nhân Huệ vương Khánh Dư trấn nhậm vùng tây Thăng long.

– Khâm Thiên đại vương Nhật Hiệu trấn nhậm vùng đông nam Thăng long.

– Hưng Ninh vương Quốc Tung tổng lĩnh lực lượng phản công.

– Để khích cho giặc khinh địch, chính Nguyên Phong hoàng đế cùng tướng quân Lê Tần, dàn thủy, bộ, kị, ngưu binh tại Bình lệ nguyên ngăn giặc. Trận đánh phải làm sao đạt ba nhiệm vụ:

Thứ nhất đánh cho giặc biết binh tướng Đại việt can giảm, thiện chiến, nhưng quân ít, nên phải thua. 
Thứ nhì, cần bảo tồn lực lượng.  
Thứ ba, đánh thực mau, rút thực nhanh, phân tán vào làng xã. 

– Lập hai phòng tuyến tại Phù lỗ, Cụ bản, mục đích làm chậm bước tiến của giặc, để triều đình đủ thời gian di tản dân chúng khỏi Thăng long.

Diễn tiến các trận đánh đúng như kế hoạch, duy một biến cố xẩy ra: Khâm Thiên đại vương không tuân lệnh Hưng Đạo vương, dàn quân tại cánh đồng Văn chống giặc. Đại bại! Ba hiệu quân tinh nhuệ bị đánh tan.

Khi quân Mông cổ vào Thăng long, một số dân chúng cưỡng lệnh triều đình, không di tản, bị giặc tàn sát khủng khiếp. Ngột Lương Hợp Thai ra lệnh đốt sạch cung điện, nhà cửa. Cũng như khi dánh sang các nước phương tây, y sai tập trung dân lại từng khu, lựa lấy những thợ giỏi, những nghệ nhân, những đàn bà con gái đẹp. Còn bao nhiêu chúng giết sạch. Thăng long biến thành bãi đất hoang! Nhưng dân chúng, quan lại trên toàn quốc vẫn không kinh sợ, cương quyết chống giặc. Quân dân thấy giặc tập trung đông thì phân tán; thấy giặc đi lẻ lẻ thì tập trung tấn công. Quân dân Việt cứ như những bóng ma, đặt đạo quân Lôi kị thiện chiến của Mông cổ trong thế bị động.

Sau hơn tháng, thấy người, ngựa Mông cổ, phần bị tiêu hao trong các trận đánh nhỏ, phần thì bệnh do thời khí, lam chướng, phần vì mệt mỏi do muỗi, mòng, vắt. Hưng Đạo vương quyết định phản công. Mặt trận Bắc cương, Vũ Uy vương đánh chiếm tất cả các đồn từ biên giới tới Kinh bắc. Bốn căn cứ chính Thảo lâm, Bình lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản là nơi đồn trú lương thảo, bị quân dân Đại Việt tràn ngập.

Tại Thăng long, Hưng Ninh vương thách Ngột Lương Hợp Thai quyết chiến tại Đông bộ đầu. Mông cổ chỉ có Lôi kị, trong khi quân Việt phối hợp nhịp nhàng kị binh, bộ binh, ngưu binh, thủy binh. Trận đánh diễn ra thực kinh khủng. Một bên là đạo quân tinh nhuệ từng sải vó ngựa khắp vùng Thảo nguyên, đánh tan những đạo binh tinh nhuệ nhất của Kim, Liêu, Tống, Tây hạ, Đại lý; từng đại phá những đạo binh thần thánh của Thập tự quân, những đạo quân Thánh chiến Hồi giáo quyết tử. Một bên là dân-quân Việt hiền hậu, nhưng lâm đường cùng lấy cái chết để bảo vệ đất tổ, bảo vệ làng xã, bảo vệ bố mẹ, anh em, vợ con và chính bản thân mình. Trận đánh từ giờ thìn (7-9 giờ), tới giờ dậu (15-17 giờ), trên bờ kị binh, bộ binh hai bên bất phân thắng bại. Nhưng về chiều, Mông cổ bị thủy quân đánh vào hông trái, Ngưu binh vượt đồng lầy đánh vào hông phải. Mông cổ bị bại, lập trận cố thủ trong những ngôi nhà dân chúng. Đúng lúc đó tin báo: mặt trận phía Đông Nam, thái tử Hoảng phá giặc, chiếm lại những vùng đất bị giặc đặt quan cai trị, rồi tái chiếm Thăng long.

Đạo binh hùng mạnh nhất thế giới bị tuyệt nguồn tiếp vận lương thảo, tiến lên thì không đủ sức, mà rút thì không đường. Thống lĩnh đại binh là Thái sư Ngột Lương Hợp Thai. Giám quân là phò mã Hoài Đô. Con trai Ngột Lương Hợp Thai là đại tướng A Truật (Aju). Tất cả đều khuất thân xin Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ nghĩ tình huynh đệ, mở vòng vây cho cha con, tướng lĩnh, cùng tàn quân rút về Trung nguyên.

Ghi chú,

Ngột Lương Hợp Thai, là tên Hán Việt. (phát âm theo Mông cổ là U ri ang khai đai, Uriyangqadai), con trai của đệ nhất thân vương, đệ nhất khai quốc công thần Mông cổ Tốc Bất Đài.

Hoài Đô, tên Hán Việt ( phát âm theo Mông cổ là Khai Đu, Qaidu). Luật từ thời Thành Cát Tư Hãn, mỗi đạo quân có một tướng tư lệnh chịu trách nhiệm chỉ huy, quyết định tác chiến. Ngoài ra còn một người trong hoàng tộc quyết định về cai trị dân chúng, kiểm soát binh, tướng.Hoài Đô lĩnh nhiệm vụ này.

Thái sư Trần Thủ Độ, nghĩ lại những tình cảm thời thơ ấu sống tại Thảo nguyên với Ngũ thiết điêu, cũng muốn mở vòng vây tha cho người xưa Ngột Lương Hợp Thai cùng đám bại binh. Tuy uy quyền ông lớn hơn Nguyên Phong hoàng đế, mà không thể tự chuyên: vì tướng thống lĩnh binh mã Bắc cương là Vũ Uy vương, tính khí hào hiệp, nhưng không dễ gì vương đồng ý việc này. Tướng trấn thủ Kinh bắc là Nhân Huệ vương, một vị vương vốn thù ghét Mông cổ tận xương tủy, thì hy vọng gì vương tha cho chúng? Chỉ tướng bao vây Đông bộ đầu là Hưng Ninh vương, người có tâm Bồ tát thì hy vọng. Cái khó khăn nhất của thái sư là phải nói sao với Hưng Đạo vương, người cầm quyền Tiết Chế, mà từ trước đến giờ thái sư luôn nghi ngờ, chèn ép vương?

Tóm lại cả bốn vị vương đó khí phách đều khác phàm, mỗi người một tư cách, một hành trạng. Thái sư không thể ra lệnh cho bất cứ vị vương nào. Ông đành xin thiết triều để triều đình quyết định.

Nguyên Phong hoàng đế thiết triều trên một chiến thuyền của hạm đội Thần phù ở bến Chương dương. Vì toàn quốc trong thời kỳ chiến tranh, nên mọi lễ nghi đều tiết giảm.

Đầu tiên Trung vũ đại vương Trần Thủ Độ trình bầy về tình bạn giữa Thảo nguyên ngũ điêu với vương. Vương xin triều đình một đặc ân là mởû vòng vây cho nghĩa đệ Ngột Lương Hợp Thai cùng bại binh rút khỏi Đại Việt. Vương nhấn mạnh về Ngột Lương Hợp Thai:

“ Y là một đại tướng đại tài của Mông cổ. Hồi Thành Cát Tư Hãn xua quân sang đánh các nước phương tây, y theo đạo binh của cha là Tốc Bất Đài. Chỉ với 35 nghìn quân, đạo binh này truy sát đại đế Mộ Hợp Mễ khắp đế quốc của ông. Thế mà nay y thống lĩnh 20 vạn quân, bị ta phá trong thời gian không đầy một tháng. Truyền thống của Mông cổ là khi bị bại ở bất cứ mặt trận nào, họ sẽ dốc quân nghiêng nước sang đánh cho kỳ thắng mới thôi. Vì vậy già này xin thiết triều khẩn cấp, để bệ hạ cùng chư vị đại thần định kế sách đối phó”. 

Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư cương quyết:

– Mông cổ là bọn tàn ác không thể tưởng tượng nổi. Khi vào Thăng long chúng đốt phá cung thất đã đành, chúng còn giết hết dân chúng, đốt sạch nhà cửa. Đàn bà thì chúng hãm hiếp xong rồi lột quần áo ném vào lửa. Trẻ con thì chúng cho ngựa dẵm lên. Thần nghĩ, chúng hung ác, dữ hơn beo, hơn cọp, độc hơn rắn rết. Ta có bắt được cọp, beo, rắn rết, thả chúng ra, chúng cũng vẫn là beo, là cọp, là rắn, là rết. Huống hồ bọn ác quỷ Mông cổ? Như Thái sư nói, tương lai chúng sẽ còn sang báo thù. Chúng báo thù thì ta đánh. Ta há sợ chúng sao?

Hình ảnh những xác chết trẻ con bị cháy đen thui, đám thiếu nữ 12-13 tuổi bị những tên lính Mông cổ khổng lồ đè ra hiếp dâm, hiếp xong chúng chặt chân, chặt tay, nhìn nạn nhân lăn lộn kêu khóc giữa tiếng cười man rợ của bọn ác quỷ hiện ra. Vương nghiến răng:

– Vậy bây giờ ta bao vây tiêu diệt hết bọn tàn ác này. Đối với tù binh, ta đem đốt chết, hay xẻo thịt. Có như vậy bọn sau tới, thấy cái gương bọn đi trước, chúng sẽ kinh sợ không dám tàn ác nữa.

Thái sư Thủ Độ đưa mắt nhìn người cháu gọi bằng ông chú (em của ông nội): mới ngày nào còn là cậu bé mà ông nuôi trong dinh như con, bây giờ thành một nam tử hùng vĩ, khí phách hiên ngang, dám chống lại ông. Ông lắc đầu thở dài.

Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung đưa ý kiến:

– Mông cổ từng chiến thắng Kim, Liêu, Tống, Đại lý và không biết bao nhiêu nước vùng Tây vực. Bây giờ họ đánh ta với mục đích dùng hàng binh, dùng tài nguyên của ta đánh phía sau Tống. Họ ước tính rằng ta sẽ đầu hàng dễ dàng như Đại lý. Họ đâu ngờ bị ta đánh bại? Thần đề nghị mình dùng đức cảm hóa chúng. Ta mở vòng vây, chu cấp lương thảo, dùng lời ngọt dẫn dụ chúng rằng trước đây tiền nhân ta là Lý Long Phi, Trần Thủ Huy, Trần Thủ Độ từng giúp Mông cổ dựng nước. Thế mà Mông cổ lại sang cướp nước ta, như thế là làm mất cái hào khí của Thành Cát Tư Hãn. Ta nhất định không thù oán, ta vẫn duy trì tinh thần của tiền nhân Đại Việt với Mông cổ. Trước cuộc chiến, Mông cổ sai sứ đòi Bệ hạ phải tuân theo sáu điều kiện:

Một là đích thân quốc vương phải vào chầu,

Hai là đem trưởng nam làm con tin,
Ba là kê biên dân số,
Bốn là phải chịu quân dịch,
Năm là phải nộp thuế, lương thảo.
Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) *

Ghi chú,

* Mông cổ đặt tại mỗi nước chư hầu một số chức quan hơi giống như hồi 1884 – 1945 người Pháp đặt tại Việt Nam. Trên cao nhất là một viên Toàn quyền. Phủ Toàn quyền có nhiều chức quan như một nước nhỏ kiểm soát triều đình. Mỗi tỉnh một viên Công sứ kiểm soát việc cai trị. Chức quan của Mông cổù gọi là Đa gu ra tri, dịch sang tiếng Hán là Đạt lỗ hoa xích. 

Chúng ta bác bỏ, không tuân theo bất cứ điều gì. Thế thì bây giờ nếu Mông cổ muốn, ta sẵn sàng gửi một hoàng tử có tài nghiêng trời lệch đất sang làm con tin, cũng để giúp họ, nối lại tình xưa. Sau đó ta lại dùng hậu lễ nhún nhường, chịu tuế cống. Như vậy tránh được chiến tranh thì là điều đại phúc cho trăm họ Hoa, Việt.

Thái tử Hoảng tỏ ra đồng ý với Hưng Ninh vương:

– Tâu, sách lược của Nhân Huệ vương, bao vây giết hết giặc, xử tử bọn tù binh thì làm cho dân chúng, tướng sĩ hả dạ. Mông cổ nghe tin sẽ căm thù ta ghê gớm. Nay cái thế của Ngột Lương Hợp Thai: Lôi kị tuy bị bại, bị giết, bị cầm tù trên năm vạn; họ còn gần năm vạn. Quân Đại lý cũng còn sáu vạn. Nếu bây giờ bao vây diệt hết 11 vạn quân của họ, thì ít ra ta cũng tổn thất vài ba vạn người. Binh thư nói: đạo làm tướng sao cho toàn quân là thượng sách, phá quân là điều không thể, và không nên dùng. Hưng Ninh vương dùng lòng dạ từ bi, quảng đại của một Bồ tát đưa ra đề nghị ấy thực hợp với tình thế hiện nay. Con xin phụ hoàng xét thuận lời tâu của vương, may ra tránh được chiến tranh. Hoặc giả kéo dài thời gian báo thù của Mông cổ càng lâu càng tốt, để ta có đủ thời gian chỉnh bị binh mã, lương thảo.

Nguyên Phong hoàng đế hỏi Vũ Uy vương:

– Còn con! Con thống lĩnh binh mã vùng Bắc cương, con nghĩ sao về vụ này?

Vũ Uy vương là con đầu lòng của nhà vua, văn mô, vũ lược. Vương hòa thuận với tất cả các em đã đành, vương còn tìm đủ cách kết hợp thâm tình với hoàng tộc lẫn văn võ bách quan. Từ năm 13 tuổi, vương được phong vùng Tây Bắc cương làm lãnh thổ riêng. Miền Bắc cương Đại Việt hồi ấy được chia làm hai: Đông cương và Tây cương. Đông cương thuộc Ngũ yên, được phong cho An Sinh vương Trần Liễu, anh ruột nhà vua. Tây cương được phong cho Vũ Uy vương, lấy con sông Hồng hà làm ranh giới Đông-Tây. Đông cương, phía Bắc giáp Quảng Tây, Quảng Đông của Tống. Tây cương giáp Quảng Tây, Đại lý, Lão qua.

Vương tâu:

– Chúng ta có hai đường lối hành động. Một là của Nhân Huệ vương. Hai là của Hưng Ninh vương và Thái tử. Ta phải chọn đường lối nào có lợi cho Đại Việt. Thực hành đường lối của Nhân Huệ vương ta được gì? Mất gì? Của Hưng Ninh vương ta được gì? Mất gì?

Vương ngừng lại để cử tọa suy nghĩ. Trong soái thuyền, thân vương, hoàng tộc bách quan triều Nguyên Phong đều là những người chính khí dọc ngang trời đất, trí tuệ chói lòa. Nay đứng trước quyết định một kế sách giữ nước trong hoàn cảnh cực kỳ quan trọng. Ai cũng trầm tư suy nghĩ. Khoang thuyền có hơn trăm người, mà không một tiếng động. Chỉ có tiếng gió heo may thổi vi vu ngoài song cửa, tiếng sóng vỗ rì rào vào mạn thuyền. Đâu đó tiếng vạc ăn đêm kêu lạc lõng trong bầu trời đông.

Chiêu Minh vương Trần Quang Khải phá tan cái không khí tịch mịch ấy bằng câu hỏi Vũ Uy vương:

– Theo anh, cả hai đường lối, chúng ta có một cái gì chung chung, không thể bỏ qua chăng?

– Chú Quang Khải hỏi câu này, thực phải.

Vũ Uy vương trả lời: Thời Lý, tiền nhân Lý Long Phi từng giúp Mông cổ. Tổ tiên ta là Phò mã Thủ Huy và Công chúa Đoan Nghi, rồi ông trẻ Thủ Độ từng là những người tạo ra nước Mông cổ. Việc đó tuy trải gần trăm năm, nhưng ân đức của bốn vị vẫn được nhắc tới. Vậy trong dịp này, ta tha cho Ngột Lương Hợp Thai, Hoài Đô, A Truật cùng đám bại binh về, rồi triều đình gửi người sang làm con tin, làm quan tại triều Mông cổ giúp họ. Như vậy nhất cử nhất động của Mông cổ ta đều biết. Hiện con cháu của Thành Cát Tư Hãn được cắt đất cai trị. Phía Tây vực là một nước, khu Tây hạ là một nước, vùng Kim-Liêu là một nước, vùng Bắc Trung nguyên là một nước. Tất cả lãnh chúa các nước không ai chịu tuân lệnh Đại hãn. Họ đang hầm hè nhau. Người của ta sẽ tìm cách gây cho họ có nội chiến. Khi có nội chiến thì tinh lực không còn. Họ cũng khó mà diệt nổi Tống. Như vậy ta sẽ không lo họ xâm lăng nữa.

Vương đưa mắt nhìn Thái sư Thủ Độ:

– Vấn đề phân chia lãnh thổ của Thành Cát Tư Hãn thế nào? Tình hình các bộ tộc Mông cổ ra sao, thì không ai biết rõ bằng ông trẻ. Mong ông trẻ ban cho những tin tức chính thức.

Thái sư Thủ Độ mỉm cười tiếp lời Vũ Uy vương:

– Khi Thành Cát Tư Hãn sắp băng hà, đã chia lãnh địa rộng mênh mông cho bốn người con. Các lĩnh địa này gọi là Hãn địa (Ulus), vua Hãn địa gọi là Vương hãn. Bạt Đô là con Truật Xích lĩnh vùng Kim trướng, tức cực Tây-Bắc (nay thuộc Đông Âu, kể cả Đức, Liên sô, Na uy, Đan mạch, Thụy điển.Trung Đông ngày nay: Iran, Irak, Syrie, Jordanie. Đông Âu, gồm cả Liên sô, Đức). Vương hãn Sát Hợp Đài lĩnh vùng Tây liêu, Thổ phồn, Tây hạ về Tây Nam (Turkestan, đế quốc Khorezm, Afganistan, Pakistan). Vương hãn Oa Khoát Đài lĩnh vùng Đông Bắc Thảo nguyên, Kim, Liêu. Vùng lãnh địa Thảo nguyên, chính quốc Mông cổ cho con út là Đà Lôi. Ông để di chúc cho Oa Khoát Đài thừa kế ngôi Đại hãn. Khi Oa Khát Đài băng, hoàng hậu Nãi Mã Chân chuyên quyền, cho nên đại hội gần đây bên bờ sông Long lý hà, các lãnh chúa tôn Mông Ca (Mongka) con trưởng của Đà Lôi lên ngôi Đại Hãn.

Từ sau chiến cuộc lão tướng Trần Tử An được phong tước Tây Viễn vương. Vương tiếp lời Thái sư Thủ Độ:

– Tuy Mông Ca được tôn làm Đại hãn, nhưng y không có đủ uy quyền như Thành Cát Tư Hãn. Khi cất quân đánh Tống, y trưng binh của các vương hãn. Các vương hãn chỉ gửi một vài đạo quân tượng trưng. Hiện các vương hãn đang có nhiều xung đột, bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra nội chiến. Ngay trong ba con của Đà Lôi cũng có những mâu thuẫn. Mông Ca tuy được tôn làm Đại hãn, nhưng tài trí thua xa Hốt Tất Liệt. Vì vậy y nghi ngờ em. Cho nên y sai Hốt Tất Liệt viễn chinh, để giảm uy tín. Nhưng không ngờ Hốt Tất Liệt lại thành công, khiến anh em đang có mầm móng chia rẽ, căng thẳng. Còn người em thứ ba là A Lý Bất Ca lại rất được lòng bọn quý tộc, tướng lĩnh gốc Mông cổ. Y nắm một lực lượng quân sự rất lớn ở Thảo nguyên. Thôi để Thái sư tiếp.

Thủ Độ đứng lên giảng giải tiếp:

– Mông Ca diệt Kim, Liêu rồi đánh Tống. Nhưng khi đến Tương dương, Phàn thành thì bị cản lại. Mông Ca muốn mở mặt trận thứ nhì, từ Nam, đánh vào sau lưng Tống, y sai một thân vương, người em ruột tài nhí nhất, tên Hốt Tất Liệt (Qubilai), mở mũi dùi này. Hốt Tất Liệt đánh chiếm Hồi cương, Tây tạng, Tứ xuyên của Tống. Từ Tứ xuyên y vượt Kim sa giang đánh Đại lý. Vua Đại lý là Đoàn Hưng Trí hèn mạt, không dám chống lại, mở cửa thành đầu hàng. Hốt Tất Liệt bắt Đoàn Hưng Trí cung ứng lương thảo, rồi lại dùng hàng binh Đại lý đánh Đại Việt ta. Hốt Tất Liệt tưởng đâu Đại Việt cũng dễ uy hiếp như Đại lý, y sai Ngột Lương Hợp Thai dàn quân tại Bắc cương, rồi sai sứ sang bắt ta đầu hàng. Không ngờ ta không chịu khuất phục. Y truyền Ngột Lương Hợp Thai tràn vào đánh ta. Ngột Lương Hợp Thai thất bại. Thế là mưu kế dùng tù hàng binh Đại Việt, Đại lý đánh vào Ung châu, Liêm châu, Quảng châu bị ta phá tan.

Nguyên Phong hoàng đế đưa mắt nhìn Hưng Đạo vương, như hỏi ý kiến. Vương suy nghĩ một lát rồi tâu:

– Ý kiến của Vũ Uy vương thực là diệu pháp giữ nước, không thể không xử dụng. Đó là kế chính. Tuy nhiên ta không tha bọn chúng dễ dàng. Hiện giờ thì Mông cổ chỉ mới chiếm được một phần lãnh thổ phía Tây-Bắc của Tống. Họ còn đang giao chiến với Tống dằng dai ở mặt trận Trường giang. Họ định đánh ta để lấy tù, hàng binh, lương thực đánh phía sau Tống, nhưng họ bị bại. Vậy ta phải làm ba việc:

– Sao cho họ bỏ ý định đánh ta mà dùng hết sức đánh phía Bắc của Tống.  
– Ta lại giúp Tống, để Tống tồn tại. 
– Trong khi ta tìm cách cho Mông cổ có nội chiến. Nội chiến giữa các vương hãn thì khó, vì các nước ấy ở quá xa, ta không biết rõ tình hình, lại ngôn ngữ phong tục bất đồng. Nhưng ta có thể gây cho ba anh em Mông Ca, Hốt Tất Liệt, A Lý Bất Ca tranh dành nhau, chém giết nhau. Tốt nhất là cho cả ba đánh lẫn nhau. Hay ít nhất là hai trong ba người này huynh đệ tương tàn. 

Vương nhấn mạnh:

– Bây giờ ta mở vòng vây, không phải là ta tha cho bọn ác quỷ; mục dích của ta là dùng chính bọn chúng làm vũ khí tâm chiến. Bọn chúng được thả về sẽ kể cho đồng đội nghe về khí hậu của ta đầy lam chướng, địa thế của ta lầy lội, dân quân ta một lòng, binh tướng ta anh hùng. Thế là ta đánh tan cái kiêu hãnh của tướng binh Mông cổ: bọn người tuy thắng Liêu, Kim, Tống, chinh phục khắp Tây vực; thế mà khi bọn mi đánh Đại Việt ta thì bị bại. Đại Việt ta tuy dân ít, đất hẹp, nhưng dân ta anh hùng, ta đủ sức đánh đuổi bọn người.

Tướng quân Lê Tần góp thêm ý:

– Tuy nhiên ta cần dọa thêm cho tù hàng binh, cho tàn  binh kinh sợ thêm. Khi về nước, mỗi khi nghĩ đến Đại Việt, họ lại rùng mình.

Cả triều đình đều đồng ý.

Hưng Đạo vương tâu:

– Được! Ta mở vòng vây cho chúng rút quân. Ta lại phục quân ở Phù lỗ, Cụ bản, Bình lệ nguyên, Thảo lâm… dọa cho chúng khiếp sợ đến phiêu hồn bạt vía.

Hưng Ninh vương đặt vấn đề:

– Khi chúng vừa rút khỏi, là ta dùng cương. Rồi ta lại dùng nhu. Nếu như ta gửi người sang làm con tin ở Mông cổ, thì ai có thể đi được? Sứ đoàn đi theo cần bao nhiêu người? Là những loại người nào?

Thái sư Thủ Độ đưa tờ chiếu thư của Mông cổ ra:

– Mông cổ từng đánh chiếm Kim, Liêu, Tây hạ, Tống. Vì vậy họ hiểu rất kỹ văn hóa của các nước Đông phương: con cả sẽ là người kế vị vua cha, nên trong chiếu thư họ đòi ta phải cho con trai trưởng sang làm con tin. Mông cổ có truyền thống là khi một con tin có tài thì họ tin dùng, phong chức tước, trao quyền hành cho, còn không tài thì phải tự xây nhà ở Hoa lâm. Mọi chi phí ăn ở đều phải tự túc. Nếu như ta gửi người tài trí võ công cao sang, họ phong cho chức tước, nhất cử nhất động của họ ta đều biết, sẽ lợi cho Đại Việt vô cùng.

Cử tọa đều đưa mắt nhìn Vũ Uy vương. Nguyên Phong hoàng đế ban chỉ:

– Nhật Duy con! Trong tất cả thân vương, hoàng tộc lẫn võ tướng, thì chỉ mình con có thể đáp ứng vào việc cực kỳ hệ trọng này. Vì con là trưởng nam của ta, con sang làm con tin thì Mông cổ không còn gây rắc rối được nữa. Hiện võ công của con chỉ thua có Quốc thượng phụ (Trần Thủ Độ) mà thôi. Tính con lại thâm trầm, điềm đạm, nhiều mưu trí, thì khi gặp sự khó, con sẽ vượt qua dễ dàng. Con mới cưới vợ, chưa có con, không vướng vít con cái. Vợ con là đệ tử đắc ý nhất của Vô Huyền Bồ Tát. Trước hôm cưới, vợ con được Bồ Tát dốc túi truyền pho kiếm thuật trấn môn của phái Mê linh, thì vợ con trở thành đệ nhất kiếm thuật Đại Việt rồi. Về võ công hai con như vậy đủ áp chế triều đình Mông cổ. Mông cổ trọng dụng, trao chức tước cho như tiền nhân Lý Long Phi đời Lý, hoặc Tổ Trần Thủ Huy, Công chúa Đoan Nghi, nhất là được như Quốc Thượng phụ (Trần Thủ Độ) thì lợi cho biết mấy. Ta cần gửi một người hiểu rõ phong tục, tập quán, ngôn ngữ Mâông cổ theo giúp con.

Nhà vua nhìn Vũ sơn hầu:

– Xét trong các quan, phi Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, không ai đương nổi. Hầu là thầy dạy Mông cổ học cho con, gửi hầu theo giúp con, thì thầy trò tha hồ tương đắc.

Lời phán của Nguyên Phong hoàng đế khiến Tạ Quốc Ninh tuy tuổi đã cao, mà trong lòng cảm kích không bút nào tả siết. Thời phong kiến, một đại thần được hoàng đế tin tưởng về tài năng, đức độ thì không phần thưởng nào to lớn hơn. Ông bước ra định hành đại lễ, để đền ơn tri ngộ, thì Nguyên Phong hoàng đế sẽ phất tay, kình lực khiến hầu không thế quỳ gối. Hầu cung tay:

– Thần muôn vàn cả tạ đại đức của bệ hạ ban cho. Thần nguyện đem hết sở tri ra báo đáp bệ hạ.

Nhà vua hỏi hầu:

– Thế nào? Khanh có được tin tức gì của phu nhân không?

– Tâu, thần đã hỏi cung tất cả tù nhân Mông cổ, chúng đều trả lời không nghe, không biết gì cả. Cả vương phi của Nhân Huệ vương (Trần Khánh Dư) cũng không.

Trước khi Mông cổ đánh Đại Việt, toàn quốc bừng lên một phong trào mở Quán văn, là nơi cho vương tôn, đại thần, phú gia, danh sĩ, họp nhau bàn luận thế sự, ngâm thơ, bình văn, tụng phú; nhất là nghe hát. Cái thú thanh nhã tràn ngập khắp các trấn, các lộ, cho tới các xã. Tại Thăng long có đến hơn trăm Quán văn. Trong đó có năm quán nổi tiếng là Tây hồ, Văn miếu, Ngọc thụy, Nghi tàm, Tô lịch.

Quán Tô lịch nằm ngay bờ sông, mà quanh năm đều có hoa nở. Quán chủ là một văn gia nổi tiếng giao thiệp rộng. Từ khi ông chiêu mộ được bẩy hoa khôi về đây ca hát, thì quán trở thành nơi thu hút hầu hết giới tao nhân mặc khách của đất nghìn năm văn vật. Bẩy nàng được danh sĩ tặng cho mỹ danh Tô lịch thất tiên. Khi các nàng mới tới, đều có nghệ danh riêng. Trong một dịp hội hoa, bẩy nàng ôm bẩy bó hoa, bẩy mầu khác nhau, văn giới Thăng long nhân đó tùy mầu đặt mỹ danh cho các nàng. Các nàng đều mang tên Hoa, chỉ khác chữ đầu thôi: Hoàng Hoa, Bạch Hoa, Huyền Hoa, Thanh Hoa, Hồng Hoa, Tử Hoa, Lan Hoa. Tuy nổi tiếng, nhưng 7 nàng đều treo cao giá ngọc. Có không biết bao nhiêu vương tôn, đại thần, công tử, phú gia cầu thân, nhưng các nàng đều không để ai vào mắt xanh.

Tiếng tăm bẩy nàng sắc nước hương trời, đàn hát, thi văn vang tới Trung nguyên.

Thế rồi Trung thu năm trước, 7 nàng treo bảng tuyển phu trong 10 ngày. Hoàng Hoa tình tình trầm tĩnh, nàng đòi trượng phu phải là người bác học đa năng, có huân công với Xã tắc; Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh là người bác văn, cường trí, giữ trọng trách tại Khu mật viện, coi về Mông cổ. Hầu nói, viết giỏi văn tự Thổ phồn, Tây vực là những văn tự chính thức của Mông cổ. Là một người nhã lượng cao trí, hầu giao hữu với tất cả văn gia Thăng long, Tống. Hầu trúng cách nàng Hoàng Hoa.

Nàng Bạch Hoa dáng người ẻo lả, nàng ước trượng phu võ công cao cường, lại phải là người hoàng tộc; Nhân Huệ vương Trần Khành Dư trúng cách.

Huyền Hoa, Thanh Hoa lại ước một trượng phu văn hay, chữ tốt, một danh sĩ; Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu lọt vào mắt xanh Huyền Hoa; Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm, được nàng Thanh Hoa.

Hồng Hoa lại ước một đại tướng quân, thế là Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách trúng cách.

Hai nàng Tử Hoa, Lan Hoa thì đòi người trượng phu phải là cao nhân võ học, hơn nữa tinh thông âm nhạc, cuối cùng hai đệ nhất cao nhân phái Sài sơn là Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn lọt vào mắt xanh hai nàng.

Bẩy đám cưới cùng tổ chức một ngày, dân Thăng long gọi là ngày hoa đăng. Đám cưới được một tuần trăng thì quân Mông cổ chiếm Thăng long. Tạ Quốc Ninh đem Hoàng Hoa cùng 6 người bạn về Nghi tàm ẩn thân. Nhưng trong đám gian nhân người Việt theo Mông cổ có tên Trịnh Ngọc và con là Trịnh Long từng nghe tiếng Tô lịch thất tiên. Y chỉ điểm chỗ ẩn của bẩy nàng. Mông cổ cử một Bách phu Lôi kị tới Nghi tàm bắt.

Truyền thống của Mông cổ là khi chiếm được vùng nào là chúng cho bắt tất cả phụ nữ đẹp, không phân biệt công chúa, quận chúa, tiểu thư hay ca kĩ; cũng không phân biệt khuê nữ hay gái có chồng. Không ai hiểu tại sao Ngột Lương Hợp Thai lại đối xử với bẩy nằng quá đặc biệt: bẩy nàng được ở trong hậu cung của vua Trần, cử tỳ nữ hầu hạ, sai những đầu bếp giỏi nhất nấu cho bẩy nằng ăn. Chính Ngột Lương Hợp Thai thu dụng Hoàng Hoa làm tỳ thiếp. Hoài Đô dành Bạch Hoa. A Truật giữ Huyền Hoa. Còn bốn nàng Thanh, Hồng, Tử, Lan thì không cho ai đụng chạm đến. Nhưng chỉ mười ngày sau, không ai thấy các nàng đâu cả.

Sau khi Mông cổ đại bại, Vũ sơn hầu thẩm vấn mấy trăm tù binh, cũng không ai biết tung tích Tô lịch thất tiên ra sao? Cho rằng vợ đã bị giết chết, hầu khóc hết nước mắt, làm một tuần chay cho Hoàng Hoa.

Thái sư Thủ Độ tiếp lời Nguyên Phong hoàng đế:

– Hộ tống sứ đoàn, ta phải mang theo một toán kị mã võ công cao, cung thủ thực giỏi. Ta đã có sẵn 10 toán Thần tiễn Long biên. Ta cử một toán theo sứ đoàn. Toán này cần một tướng trẻ, trí dũng, được triều đình tin dùng chỉ huy. Xét trong các thiếu niên thần thấy chỉ có Thiên trường ngũ ưng là xứng đáng.

Tây Viễn vương thắc mắc:

– Thiên trường ngũ ưng là những ai vậy?

Thái sư Thủ Độ tỏ ra cực kỳ cao hứng:

– À là năm thằng cháu. Nói về tài nghệ, thì mỗi cá nhân đều có một tuyệt nghệ bậc nhất Đại Việt. Nói về xuất xứ thì mỗi người có một xuất xứ lạ lùng. Nói về tính tình thì mỗi cá nhân đều có những ưu việt hiếm có. Nhưng tất cả đều giống nhau ở một điểm nhã lượng, cao trí, anh hùng, hào sảng. Chúng kết làm huynh đệ theo thứ bậc Dã Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành, Địa Lô. Trong thời gian chống giặc vừa qua, chúng gần gũi huynh nhiều, nên huynh hiểu chúng. Chúng gọi huynh là Ông trẻ, huynh gọi chúng là Thiên trường ngũ ưng.

Thái tử Hoảng tâu:

– Trong năm người thì Địa Lô họ Nguyễn, nhỏ tuổi nhất, dáng người thanh nhã, mặt đẹp như ngọc, xuất thân phái Sài sơn, tài kị mã siêu việt; học văn rất uyên bác, cử bút thành văn, bẩy bước thành thơ, có tài phục dược. Lô được danh sĩ Thăng long tặng cho cái tên Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử. Hiện Địa Lô lĩnh chức Trưởng sử trong phủ của thần nhi.

Thủ Độ tiếp:

– Thứ tư là Đại Hành. Trong một lần huynh làm lễ cầu siêu cho vong linh tử sĩ ở chùa Chiêu thiền (Láng), huynh bố thí lộc Phật cho kẻ khó. Trên đường về huynh gặp một thiếu niên nằm bên đường tay ôm phẩm oản, với ba quả chuối. Gia tướng đỡ thiếu niên mang về phủ của huynh. Y sĩ chẩn mạch cho biết y rất khỏe mạnh, sở dĩ bị xỉu vì đói quá. Gia tướng đem cơm, thịt gà cho ăn. Y chỉ ăn cơm, còn thịt thì gói lại. Huynh hỏi: tại sao trong tay có oản, chuối mà không ăn để đến nỗi xỉu nằm bên đường. Thiếu niên thưa rằng y có mẹ già ở nhà, hai ngày qua bị đói, không có gì bỏ bụng, nên khi được bố thí oản chuối, y mang về cho mẹ. Nhưng đi giữa đường kiệt lực, ngã xuống. Huynh lại hỏi: Tại sao không ăn thịt gà, mà lại dấu vào túi? Y trả lời rằng mẹ y thường ước ao được ăn một miếng thịt gà mà chưa bao giờ toại nguyện. Vì vậy hôm nay y dấu mang về cho mẹ. Huynh cảm thương đứa trẻ có hiếu, thu nhận làm mã phu trong phủ. Ngày nào cũng như ngày nào khi ăn cơm, có miếng gì ngon y lại dấu mang về cho mẹ. Trong một lần con chiến mã của huynh xổ chuồng chạy, mã phu cỡi ngựa chiến đuổi theo mà không bắt lại được. Y hú lên một tiếng, đuổi theo bắt được ngựa về. Huynh cải thu nhận y làm gia tướng. Hiện y mang hàm Đô thống, y gọi huynh là ông nội, huynh gọi y là Đại Hành, vì y chạy giỏi.

Tây Viễn vương hỏi:

– Thế còn Cao Mang, Yết Kiêu, Dã Tượng?

Vũ Uy vương chỉ Hưng Đạo vương:

– Dã Tượng, Yết Kiêu là nghĩa tử của Hưng Đạo vương. Cao Mang là một tiểu hòa thượng tại gia. Cao Mang, Dã Tượng là Ngưu tướng. Cả hai đều cùng mang hàm Đô Thống. Dã Tượng là thống lĩnh Ngưu binh, Cao Mang là phó thống lĩnh. Cao Mang có tài bắn tên bách phát bách trúng. Yết Kiêu là Ngạc tướng, hàm Đô thống, thống lĩnh Ngạc binh.

Hưng Đạo cho gọi Thiên trường ngũ ưng vào. Cả năm định quỳ gối hành lễ.

Lẽ quan hô:

– Miễn lễ.

Hưng Đạo vương nhìn Ngũ ưng với tất cả yêu thương:

– Các con được triều đình tín nhiệm chọn một trong các con theo sứ đoàn sang Mông cổ. Vậy ai tình nguyện đi?

Cả năm đều xin đi.

Nhà vua hỏi Vũ Uy vương:

– Trong năm Ưng, con định chọn Ưng nào đi theo?

– Con xin chọn Địa Lô với Dã Tượng.

Dã Tượng, Địa Lô hành lễ:

– Đa ta vương gia đã chọn hai thần nhi.

Hưng Đạo vương bảo Dã Tượng:

– Con trao quyền thống lĩnh Ngưu binh cho phó tướng Cao Mang. Nhiệm vụ của con, với Địa Lô sẽ được Khu mật viện hướng dẫn.

Khi rời khoang thuyền lên bờ, Tây Viễn vương lĩnh Phiêu kỵ Đại tướng quân Trần Thủ An cầm tay Vũ Uy vương như muốn nói điều gì, rồi ông ngập ngừng suy nghĩ. Cuối cùng ông nói:

– Khi con lên đường ta sẽ có ít lời dặn con.

Buổi thiết triều chấm dứt.

Theo tinh thần buổi thiết triều: Hưng Ninh vương truyền lệnh mở vòng vây Đông bộ đầu, Thái tử Hoảng mở vòng vây Thăng long, Nhân Huệ vương cho mở vòng vây Kinh Bắc. Triều đình chu cấp lương thảo, chữa trị cho thương binh, chiến mã, tiễn họ lên đường.

Thái sư Trần Thủ Độ thân dẫn Ngột Lương Hợp Thai cùng tướng sĩ Mông cổ vượt sông Hồng sang Gia lâm. Ông sai bầy một tiệc rượu tiễn nghĩa đệ tại phủ đường Gia lâm.

Hưng Đạo vương sai sứ mật lệnh cho tướng sĩ tại Cụ bản, Phù lỗ, Bình lệ nguyên.

Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách, Phá lỗ thượng tướng quân Trần Trữ, Hoài hóa thượng tướng quân Trương Đình được lệnh, phục binh tại Phù lỗ. Khi tướng Mông cổ là A Truật, con trai Ngột Lương Hợp Thai, dẫn tiền quân rút qua đây thì bị ba tướng đổ quân ra vây như thành đồng vách sắt. Giữa lúc binh tướng Mông cổ kinh hồn lạc phách, thì Vũ Sơn hầu Tạ Quốc Ninh cầm lệnh bài tới, ban lệnh cho ba tướng mở vòng vây. Ba tướng vui vẻ tha cho A Truật, lại còn dùng lời ngọt ngào đãi rượu với gà rừng quay.

Thoát vòng vây Phù lỗ, binh tướng Thiên triều chưa hoàn hồn, thì khi tới Cụ bản, nơi diễn ra hai trận đánh kinh thiên động địa. Trận thứ nhất Mông cổ tấn công chiếm chiến lũy. Sau đó Mông cổ đóng binh tại đây để bảo vệ đường tiếp viện lương thảo. Mới mấy hôm trước Cụ bản bị quân Việt tái chiếm. Nay dân chúng đã trở về, đang dọn dẹp, tái thiết chiến lũy. Thình lình ba tướng Lê Phẩm, Phạm Long, Nguyễn Bích phát pháo, làm binh tướng Mông cổ rụng rời chân tay. Nhưng không có quân bao vây mà ba tướng sai người khiêng rượu thịt ra tiễn quân Thiên triều.

Nào đã hết đâu, lúc Ngột Lương Hợp Thai tới Bình lệ nguyên lại bị Thủy binh, Ngưu binh, Kị binh dàn ra như đe dọa, Thái sư Trần Thủ Độ phải đích thân can thiệp, vòng vây mới được mở.

Khi chia tay tại biên giới, Ngột Lương Hợp Thai xin Thái sư Trần Thủ Độ thả hơn vạn tù hàng binh Mông cổ, Đại lý. Thái sư Trần Thủ Độ can thiệp với Vũ Uy vương. Vũ Uy vương đưa điều kiện:

“ Có hơn nghìn người của võ lâm Trung nguyên theo quân Mông cổ sang đánh Đại Việt. Để họ phải trung thành, quyết tâm với Mông cổ, Mông cổ sai quản chế vợ con họ. Trong trận đánh Thăng long, đứng trước việc quân Mông cổ tàn sát Hoa kiều, họ đã phản Mông cổ, hàng Đại Việt, cứu Hoa kiều. Vậy nay xin Thái sư Ngột Lương Hợp Thai đem vợ con họ trao đổi lấy tù binh”. 
 Ngột Lương Hợp Thai đành chấp nhận. 

Đại Việt vừa trải qua một cuộc chiến tranh, tuy chỉ trong vòng hơn tháng, nhưng cực kỳ khủng khiếp. Đất nước không bị tán phá nhiều, chỉ có bẩy nơi diễn ra trận đánh bị thiệt hại: Thảo lâm, Bình lệ nguyên, Cụ bản, Phù lỗ, Thăng long, Đồng văn, và Đông bộ đầu. Triều đình Nguyên Phong hô hào toàn quốc cùng giúp các nơi này kiến thiết lại. Sức sống của dân chúng phục hồi rất mau.

Sứ đoàn bao gồm Vũ uy vương Nhật Duy, vương phi Ý Ninh, Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, Dã Tượng, Địa Lô và đoàn kị mã Long biên 30 người, thêm 25 người phục dịch, 10 xe song mã. Tất cả 55 kị mã cũng như người phục dịch đều là nhữõng cao thủ, võ công thuộc loại thượng thừa, thông minh, biết nói tiếng Hoa, tiếng Mông cổ. Họ lại được Khu mật viện giảng giải tất cả tổ chức triều đình, lãnh thổ, quan chế, phong tục của Mông cổ cặn kẽ; huấn luyện về phương pháp trinh sát, thu nhặt tin tức tình báo, cùng phòng bị đối phương khai thác tin tức mình. Lại cấp cho sứ đoàn mười con chó Ngao để canh phòng dưới đất, mười con chim ưng để đưa thư, canh phòng trên không. Cuộc giảng giải này phải mất hơn tháng mới xong.

Vũ Uy vương bàn với Tạ Quốc Ninh:

– Thưa thầy, trước hết trong sứ đoàn cần chính danh. Không lẽ lúc nào Địa Lô, Quốc Kinh cũng gọi con là vương gia, xưng thần? Trong huyết tộc thì phụ hoàng là chú ruột Hưng Đạo vương. Quốc Kinh là con của vương, thì gọi con bằng chú. Như vậy trên đường đi sứ Đia Lô, Quốc Kinh cứ gọi con bằng chú cho thêm thân mật. Kinh chỉ mới học chữõ, xin thầy nhận Kinh làm học trò; dọc đường thầy dạy văn cho Kinh. Kinh gọi thầy bằng thầy. Thầy dậy tất cả sứ đoàn nói tiếng Mông cổ, như vậy Địa Lô cũng gọi thầy bằng thầy.

Tạ Quốc Ninh vui vẻ:

– Đa tạ vương gia đã cho tôi hai người học trò uy vũ quán thế.

Địa Lô, Quốc Kinh vái Quốc Ninh bốn vái:

– Con xin bái lạy thầy.

Vương hỏi Dã Tượng:

– Về võ công, con đã học được những gì? Ai là sư phụ của con?

– Con chưa bái sư chính thức.

Vương kinh ngạc, vì vương từng thấy Dã Tượng xử dụng võ công trong suốt bẩy trận đánh. Vương hỏi:

– Chính mắt chú thấy cháu xử dụng những chiêu võ kỳ ảo. Tỷ dụ: chiêu thứ nhất, khi xuất trận, bọn Lôi kị sở trường thúc chân vào bụng cho ngựa chồm lên đầu một bộ binh, rồi xung vào phá tuyến đầu trận địa. Một Lôi kị đã dùng chiêu số này với cháu. Cháu xuống đinh tấn, hai tay chụp chân ngựa vặn tréo, ngựa bị ngã lộn đi hai vòng. Tên Kị mã cũng ngã lăn theo, cháu phi thân đến đá vỡ ngực y. Chiêu thứ nhì: hai Kị mã phi song song vào trận địa Ngưu binh. Cháu nhào tới, hai tay ấn vào đầu hai chiến mã, rồi vọt lên cao, lộn một vòng, đáp ra phia sau, hai tay cháu chụp đuôi hai chiến mã kéo lùi một hai bước, rồi buông ra. Hai chiến mã ngã lộn xuống đất, vật hai Lôi kị theo. Cháu phi thân phóng hai cước vào đầu chúng.

Dã Tượng kính cẩn đáp:

– Thưa chú, trong thời gian huấn luyện Ngưu binh, cháu cùng các Ngưu tướng tự chế ra các chiêu thức chống với Lôi kị. Tất cả 9 lộ. Hồi theo Hưng Ninh vương đánh trận Đông bộ đầu, vương bảo cháu diễn lại từ đầu cho vương xem. Vương giúp cháu chỉnh khuyết điểm, biến hóa mỗi lộ ra 9 chiêu, cộng 81 chiêu, rồi vương đặt tên là Đảo mã cửu lộ thức.

Vương khen:

– Các chiêu số đều thuần nhất, chất phác, nhưng khắc chế với kị binh. Có điều cả chín lộ đều dùng sức của một mục đồng, nên không ảo diệu. Nếu người xử dụng có công lực cao, thì uy lực sẽ vô cùng dũng mãnh.

Dã Tượng không có tên, hồi mới ra đời, phong tục hồi đó thường không đặt tên cho con, mà chỉ gọi bằng những tên bình dân. Như con trai thì mang tên Cu, Chó, Trâu. Con gái thì mang tên Hĩm, Cái. Khi đứa trẻ 12-13 tuổi, vượt khỏi cái tuổi bị chết về bện đậu mùa mới làm lễ gia tiên đặt tên cho. Bà nội của Dã Tượng thấy cháu bụ bẫm dễ thương, bà đặt cho cháu cái tên Cu Chó. Năm bẩy tuổi, Cu Chó mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nó phải đi ở, chăn trâu cắt cỏ cho một ngôi chùa vùng Thiên trường. Sư trưởng của chùa là người nhân từ, ông đối xử với Cu Chó bằng tất cả tấm lòng từ bi. Ngoài việc chăn trâu của chùa, Cu Chó không phải làm công việc gì khác. Khi các chú tiểu trong chùa học văn, kinh Phật, ông cho Cu Chó cùng học. Trời cho Cu Chó một thân thể hùng vỹ, thông minh, lại thâm nhiễm đạo lý nhà Phật.

Ba năm trước khi giặc Mông cổ ngấp nghé ngoài Bắc cương, triều đình ban chỉ cho xã ấp tập trung trẻ chăn trâu lại, huấn luyện tổ chức thành đội ngũ Ngưu binh. Vốn thông minh, có sức khỏe siêu việt, tính tình trầm tĩnh, Cu Chó được cử làm Ngũ trưởng (chỉ huy 5 người), rồi Lượng trưởng (chỉ huy 20 người). Trong lần duyệt binh, nó lĩnh chức Vệ úy (tương đương với ngày nay là Đại úy), chỉ huy một vệ Ngưu binh. Cu Chó biểu diễn đẩy ngã một con trâu mộng. Nguyên Phong hoàng đế ban cho Cu Chó cái tên Dã Tượng. Thời xưa, một người được vua ban cho mỹ danh, là điều hãnh diện vô cùng. Trong dịp này Hưng Đạo vương nhận Dã Tượng làm con nuôi, ngài đặt tên Dã Tượng là Trần Quốc Kinh. Nhưng không ai gọi cái tên này cả, mà chỉ gọi là Dã Tượng. Ngay hôm được nhận Dã Tượng làm con nuôi, Hưng Đạo vương cho chàng vào cung bái kiến Tuyên minh thái hoàng thái hậu. Dã Tượng được bà dạy cho hai bộ võ công trấn môn của phái Đông A là Đông A chưởng pháp và Thiên la thập bát thức.

Sau trận Bình lệ nguyên, tài năng chỉ huy Ngưu binh của Vệ úy Dã Tượng làm cho Lôi kị Mông cổ kinh hoàng, chàng được thăng lên Tá lĩnh chỉ huy 10 Vệ Ngưu binh. Rồi sau các trận Cụ bản, Phù lỗ, Đông bộ đầu, Dã Tượng được thăng lên Đô thống, tổng chỉ huy Ngưu binh toàn quốc.

Thời gian theo quân trong các trận Thảo lâm, Bình lệ nguyên, Dã Tượng được Vũ Uy vương dạy căn bản võ thuật phái Đông A. Trong trận Cụ bản, Dã Tượng gặp Tuyên minh thái hoàng thái hậu, vương phi Kiến Quốc đại vương, vương phi Hưng Nhân vương. Ba bà yêu thương Dã Tượng cực kỳ. Cả ba đem hết tâm huyết dậy đứa cháu nuôi. Hồi về Thăng long dự trận Đông bộ đầu, Dã Tượng lại được Hưng Ninh vương dạy võ công Trúc Lâm yên tử.

Ghi chú,

Tuyên minh thái hoàng thái hậu, nhũ danh Tô Phương Lan. Bà là vợ của Trần Lý, bà nội của Nguyên Phong hoàng đế. Vương phi Kiến Quốc đại vương nhũ danh Phan Mỹ Vân, vợ của Trần Tự Khánh chú ruột Nguyên Phong hoàng đế, khai quốc công thần Trần triều. Vương phi Hưng Nhân vương, nhũ danh Trần Kim Ngân, là vợ của Phúng Tá Chu, em gái Trần Lý.

Về hành trạng của ba bà, xin xem AHĐADCBM. 

Vương nói với Địa Lô:

– Còn cháu, cháu là học trò của chưởng môn phái Sài Sơn, thì Nho, Y, Lý, Số, Xạ, Ngự, Thư, Họa đều thông. Ta yên tâm.

Quốc Ninh đề nghị:

– Dọc đường, đối với đội kị mã Long biên, ta vẫn để họ trang phục kị binh. Còn sứ đoàn, để giữ quốc thể, ta cứ mặc y phục nông dân Đại Việt cho phải lẽ.

Trước khi lên đường, Vũ Uy vương cùng vương phi vào Hoàng thành vấn an sinh mẫu của vương là Tuyên phi Mai Đông Hoa.

Vũ Uy vương Nhật Uy với vương phi Ý Ninh mới kết hôn chưa quá một năm, đám cưới diễn ra ngay sau trận Phù lỗ, quân Mông cổ đang tiến về Thăng long, chiến cuộc diễn ra khủng khiếp. Vì vậy mọi lễ nghi đều hủy bỏ. Hai vợ chồng bái tạ phụ hoàng, hướng về Thiên trường lễ vọng tổ tiên, rồi lên đường trấn ngự Bắc cương. Vì vậy vương phi chưa được diện kiến sinh mẫu của vương. Phi hỏi vương:

– Anh ơi, chúng mình cưới nhau trong khi khói lửa mịt mờ! Cho đến nay em cũng không biết phụ hoàng có bao nhiêu hoàng nam.

– Để anh cho em biết. Trong các con của phụ hoàng, nếu tính theo tuổi thì Tĩnh Quốc vương Khang lớn nhất, thứ đến anh. Cả hai cùng tuổi Đinh Dậu (1237). Thái tử Hoảng nhỏ hơn anh ba tuổi, chú ấy tuổi Canh Tý (1240). Tiếp đến là Chiêu Minh vương Quang Khải. Sau tới Vũ Minh vương Quang Húc, Chiêu Quốc vương Ích Tắc, Chiêu Văn vương Nhật Duật, cuối cùng là Chiêu Hòa vương Quốc Uất. Tổng cộng 8 người.

– Phụ hoàng có nhiều hoàng nam, hầu hết đều văn mô, vũ lược, có tài đế vương. So về tuổi thì chú Hoảng là con trai thứ ba, nguyên do nào chú lại được lập làm Thái tử, rồi sẽ được truyền ngôi vua?

Vương giảng giải:

– Theo thể chế các triều đại Hoa-Việt xưa, khi một hoàng tử đến tuổi 13 thì được phong tước vương, được gọi là thân vương, được trao cho nhiều chức vụ. Thường thì gồm cả chức văn lẫn võ, được cho mở phủ đệ riêng. Mỗi phủ đệ có nhiều chức quan do triều đình ấn định. Các thân vương cũng có quân túc vệ riêng. Việc này dẫn đến các vị vương dùng binh tướng của mình làm loạn như triều Lê. Khi vua Lê Đại Hành băng, các hoàng tử kéo quân về tranh ngôi vua, chém giết nhau không hề nghĩ tình ruột thịt. Cuối cùng Lê Long Đĩnh giết hết các anh-em, lên ngôi vua, tức Lê Ngọa triều. Bởi vậy khi Lê Ngọa triều băng, trong triều, ngoài trấn không còn thân vương nào nữa, đưa đến triều Lê mất về họ Lý.

– Em cũng đã biết như thế.

Vương phi trình bầy: Này nhé, sang triều Lý, vua Lý Thái tổ đã từng thấu hiểu những cay đắng của triều Lê. Nhà vua không cho phủ đệ của thân vương tổ chức quân đội riêng. Nhưng các hoàng tử đều là những người có tài cầm quân. Vua trao cho bốn con bốn chức vụ lớn. Một người lĩnh Đô đốc thủy quân, một người thống lĩnh Kị binh, một người thống lĩnh Thiên tử binh, một người thống lĩnh Ngự lâm quân, Thị vệ. Ngài ban chỉ dụ: ngôi trừ quân bỏ trống, các hoàng tử đều được phong làm thái tử. Người nào nhiều công trạng, có tài nhất sẽ được lập làm trừ quân. Nhưng ngài băng hà thình lình, khi chưa chỉ định người kế vị, vì vậy đưa đến chư vương nổi loạn. Các đại thần quyết định theo cơ chế cổ, con trưởng sẽ được kếù vị. Con trưởng của vua Lý Thái tổ là Khai Thiên vương. Các tướng giúp Khai Thiên vương, dẹp chư vương, rồi tôn lên ngôi vua tức vua Lý Thái tông.

– Huynh đệ tương tàn là điều đau đớn nhất của các triều trước.

Vũ Uy vương than thở: Vì thế khi vua Lý Thái tông lên ngôi, ngài ban chỉ không cho thân vương, hoàng tộc giữ các nhiệm vụ Thái úy, Quản Khu mật viện, Đô đốc Thủy quân, Tổng lĩnh Thiên tử binh, Tổng lĩnh Kị binh.

Chú giải,

Thái úy, tương dương với ngày nay là Tổng tư lệnh quân đội.

Khu mật viện, tương đương với ngày nay bao gồm bộ Công an, Cục tác chiến, Cục quân báo, Cục phản gián.Tổng cục 2.

Đô đốc Thủy quân, tương đương với ngày nay là Tư lệnh Thủy quân.

Tổng lĩnh Thiên tử binh, tương đương với ngày nay là Tư lệnh lục quân.

Tổng lĩnh Kị binh, tương đương với ngày nay là Tư lệnh Thiết giáp binh.

– Anh nói lạ! Thế sao sau này ngài Lý Thường Kiệt cũng từng được trao cho trao chức Thái úy?

Vương cười lớn:

– Em không nhớ kỹ sử mất rồi; ngài Thường Kiệt nguyên họ Ngô, được ban quốc tính, chứ ngài không phải họ Lý.

– Em quên! Chính sách này giúp cho suốt triều Lý, không bị các nạn hoàng tộc chém giết nhau vì tranh ngôi vua. Sử chép Tô Hiến Thành, Đàm Thì Phụng, Đàm Dĩ Mông từng giữ chức Thái úy. Cuối cùng trong lúc rối loạn, chức Thái úy do tổ Trần Tự Khánh nhà ta nắm rồi đi đến triều Lý mất về họ Đông A nhà mình.

Vương nhìn thẳng vào khuôn mặt thanh tú của vương phi, giảng giải:

– Phụ hoàng đã thấy các vết xe đổ của triều Lê, triều Lý. Người ban hành luật: Khi chú Hoảng là Thái tử đã đủ lớn, thì được truyền ngôi, người sẽ lui về làm Thái Thượng hoàng. Có lẽ sang năm tới. Như vậy tránh được tình trạng tân quân bỡ ngỡ khi mới lên ngôi, tránh tình trạng các con tranh giành ngôi vua chém giết nhau. Tổ chức cai trị chia ra làm hai: chức vụ trong triều, cũng như ngoài trấn thì trao cho các quan. Còn các vương, hầu hoàng tộc thì ai về đất phong của người ấy. Đất phong như một tiểu quốc riêng, có tiểu triều với đầy đủ quan chức, quân đội. Mỗi tháng các vương hầu đều về Thăng long dự buổi thiết đại triều, bàn quốc sự. Xong việc lại trở về lãnh địa của mình. Vừa rồi, Mông cổ kéo đại binh sang, Hưng Đạo vương hội quân, các vương hầu kéo quân bản bộ về cùng nhận lệnh đánh giặc. Chính anh, anh kéo quân Bắc cương về chịu lệnh.

Vương phi vẫn không chịu:

– Theo lẽ chính thống thì bao giờ các vua chúa Hoa, Việt cũng truyền ngôi cho con trai trưởng, là người lớn tuổi nhất. Nếu không phải con trưởng thì cũng phải là người con thứ có nhiều công trạng hoặc tài đức vượt xa các anh em, như Đường Cao tổ truyền ngôi cho con thứ là Tần vương Lý Thế Dân. Nhưng tại sao chú Hoảng, tài không hơn anh, công lao lại càng thua xa anh. Theo tuổi tác, chú là con thứ ba lại được lập làm Thái tử?

– Chú ấy được phong làm Thái tử, vì tuân theo cái lẽ chính thống của Nho gia. Với nguyên tắc chính thống thì anh không thể lên ngôi vua. Anh mà lên làm vua, sĩ dân không phục, rồi nước sẽ loạn to!

– Em không hiểu.

– Này nhé, phụ hoàng nhờ là phò mã của vua Lý Huệ Tông, là chồng của vua Lý Chiêu Hoàng, mà được nhường ngôi. Phụ hoàng có hoàng hậu, nhiều phi tần, cung nga, sinh nhiều hoàng nam. Nhưng người kế vị phải là cháu ngoại của vua Lý Huệ Tông mới hợp lẽ chính thống, dân chúng, sĩ dân mới phục. Hoàng hậu Chiêu Hoàng không có hoàng nam, bị phế xuống làm công chúa, thì chỉ con của phụ hoàng với công chúa Thuận Thiên, chị của vua Chiêu Hoàng mới đủ tư cách kế vị. Điều này anh bị loại, vì anh là con một cung nga. Mẫu thân mình xuất thân là con hát được đưa vào cung. Như anh vừa nói, so về tuổi thì anh Quốc Khang với anh lớn nhất. Ngược lại so về vai vế thì Thái tử Hoảng lớn nhất, thứ đến Quang Khải, vì cả hai là con của hoàng hậu Chiêu Thánh. Tiếp đến Quang Húc, Ích Tắc là con của Tây cung quý phi đứng thứ ba, thứ tư; Nhật Duật là con của Hoàng phi đứng thứ năm. Anh với Quốc Uất là con của một Tu Dung, đẳng cấp thấp nhất đứng thứ sáu, thứ bẩy. Anh Quốc Khang không phải con của phụ hoàng, nếu kể cả anh ấy thì phụ hoàng có 8 hoàng nam.

– Em hiểu rồi. Trong cuộc chiến vừa qua, anh lập công lớn, phụ hoàng lấy lý tử quý, mẫu vinh (con quý thì mẹ vinh), mẫu thân anh được cải phong lên bậc Tuyên phi. Do vậy dù anh lớn tuổi nhất trong các hoàng nam của Phụ hoàng, dù anh là người văn mô vũ lược, lại từng thống lĩnh binh mã Bắc cương, chiến thắng Mông cổ, vẫn không được phong làm Thái tử.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì sự việc này như sau:

Hồi vua Trần Thái Tông còn thơ, được tuyển vào cung hầu hạ nữ hoàng đế Lý Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng ưng ý tuyển làm chồng, rồi truyền ngôi cho năm 1225. Thái Tông phong Chiêu Hoàng tước Chiêu Thánh hoàng-hậu.

Niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), hoàng-hậu Chiêu Thánh đã 19 tuổi mà chưa có hoàng nam, tông thất nhà Lý rục rịch đòi lại ngôi vua. Thái-sư, Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ ép vua giáng Chiêu Thánh xuống làm Thiên Cực công-chúa, lập vương phi của An Sinh vương Liễu là công-chúa Thuận Thiên, cũng là con của vua Lý Huệ Tông làm hoàng-hậu, vì bà đã có thai ba tháng. Thủ Độ nghĩ: ông có thể lý luận với tông tộc nhà Lý rằng: Đứa trẻ sinh ra là con của Thuận Thiên, thì cũng là cháu của vua Huệ Tông. Cháu vua Huệ Tông cũng nghiễm nhiên được nối ngôi. Bị làm nhục, An Sinh vương Liễu cất quân làm loạn. Sau nhờ Linh Từ quốc-mẫu Trần Thị Kim Dung, bà là:

– Cô của vua Trần Thái Tông, An Sinh vương Liễu,

– Hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông,

– Hiện là vợ của Thái-sư Trần Thủ Độ,

– Bà cũng là mẹ của công chúa Thuận Thiên và Chiêu Hoàng,

Bà đứng ra dàn hòa, cuộc chiến tương tàn mới êm. Người đương thời cũng như các sử gia đều cho rằng Thái sư Trần Thủ Độ là người thất học, làm càn. Ông nặn ra việc Trần Cảnh, Lý Chiêu Hoàng có tình ý với nhau, rồi cho hai người kết hôn. Sau lại bắt vua Trần Thái tông bỏ Chiêu Thánh, đem vương phi An Sinh vương Liễu là công chúa Thuận Thiên ép làm hoàng hậu.

Các sử gia đều kết tội Thái sư Trần Thủ Độ.

Nguyên do, Thái sư Thủ Độ đã căn cứ vào những sự kiện lịch sử Hoa-Việt mà người xưa gọi là chính thống rồi hành động. 

Cái lý chính thống của Thái sư Trần Thủ Độ thế là thế nào? Sử, cũng như chính sự các đời đều ca tụng ba vua Nghiêu, Thuấn, Vũ là những vị vua thánh. Vua Nghiêu gả hai công chúa là Nga Hoàng, Nữ Anh cho phò mã là một nông dân, rồi nhường ngôi, phò mã trở thành vua Thuấn. Vua Thuấn lại nhường ngôi cho phò mã, thành vua Vũ. Đây là hình thức khuôn mẫu cho các đời sau, gọi là chính thống. Dẫn chứng sử Trung hoa, con rể nối ngôi cha vợ cho hợp với chính thống e dài quá, xin dẫn chứng sử Việt Nam:

Một là, khi anh hùng Dương Diên Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám hại, con rể là Ngô Quyền, lên thay quyền, diệt kẻ ác, rồi làm vua. Hợp với lẽ chính thống, nên tường sĩ, dân chúng qui phục ngài, vì vậy ngài mới thắng giặc Nam Hán, lên làm vua.

Hai là, vua Đinh Tiên hoàng, tuy có tài dẹp các sứ quân, nhưng ngài cũng cố tìm ra cớ gì hợp với chính thống? Vì vậy ngài phải phong cháu Dương Diên Nghệ là Dương Vân Nga, làm hoàng hậu, để qui phục nhân tâm: Con rể kế ngôi nhạc phụ, như vậy mới có chính nghĩa, hợp với lẽ chính thống.

Ba là, khi vua Lê Ngọa Triều băng, tuy con còn thơ dại, nhưng vẫn còn đến ba hoàng tử em vua Ngọa Triều lĩnh tước vương, đang trấn ngự bên ngoài. Nhưng tiều đình tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, sau là Lý Thái tổ. Tại sao? Vì ngài là phò mã của vua Lê Đại Hành.

Bốn là, khi vua Lý Thái tổ lên ngôi, ngài có nhiều con, tất cả các con đều được phong là Thái tử, ngụ ý rằng ngôi trừ quân chưa định. Thái tử nào có tài, có đức sẽ được truyền ngôi. Tuy Thái tử Lý Long Bồ tước phong Khai Quốc vương là người tài trí, đức độ trùm Hoa Việt, nhưng cuối cùng vua Lý Thái tổ truyền ngôi cho Thái tử Phật Mã tước phong Khai Thiên vương; dù vua biết rằng vương là người mà tài, đức thua Khai Quốc vương xa, lại khệnh khạng, hình thức. Nguyên do chỉ vì Phật Mã là con của hoàng hậu Tá quốc, Long Bồ là con của hoàng hậu Lập nguyên. Mà hoàng hậu Tá quốc là công chúa con vua Lê Đại Hành. Như vậy, cháu ngoại vua Lê lên ngôi vua, thì chính thống mới sáng tỏ.

Trần Thủ Độ muốn lấy ngôi vua từ họ Lý sang họ Trần, ông phải xếp đặt cuộc hôn nhân Trần Cảnh–Lý Chiêu Hoàng, cho hợp với chính thống. Đến khi Chiêu Hoàng chưa có con, hoàng tộc nhà Lý rục rịch muốn yêu cầu vua Trần Thái tông nhận một đứa trẻ con của một thân vương triều Lý làm thái tử, rồi truyền ngôi cho. Vì vậy ông mới đem vương phi của An Sinh vương ép vào ngôi hoàng hậu, để đứa trẻ đó sau lên nối ngôi thì là cháu ngoại của vua Lý Huệ tông, cháu ngoại lên nối ngôi ông, cho hợp với chính thống. 
Thuận Thiên hoàng hậu sau có với vua Thái tông hai hoàng tử, kể cả đứa con oan nghiệt vốn là bào thai của An Sinh vương Liễu là ba. Đứa trẻ đó sau là Tĩnh Quốc đại vương. Tĩnh Quốc đại vương không được nối ngôi vì là con An Sinh vương Liễu, mà ngôi vua về thái tử Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. 
Còn hoàng hậu Chiêu Thánh bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa. Thiên Cực trốn khỏi hoàng cung, đi tu, pháp danh là Vô Huyền. Đương thời truyền tụng bà đắc đạo thành Bồ Tát, nên gọi ngài là Vô Huyền bồ tát. Vô Huyền bồ tát là sư phụ của vương-phi Ý Ninh. Trần Thủ Độ không tìm được tông tích của Chiêu Thánh, sợ Chiêu Thánh trốn ra các trấn hô hào phục hưng triều Lý, bèn đem một cung nga có dáng giống Chiêu Thánh, tên Thục Anh giả làm ngài để trấn an dư luận. Nếu Chiêu Thánh khởi binh thì Thủ Độ có thể tuyên bố rằng đó là Chiêu Hoàng giả. Còn Thục Anh mới là Chiêu Hoàng. 
Sau chiến thắng Mông Cổ, vua Trần Thái tông thấy việc ép cung nga Thục Anh này sống cô quạnh, thì động lòng trắc ẩn mới đem gả cho Lê Phụ Trần. Bấy giờ Thục Anh đãù 36 tuổi. 
Sử chép rằng Công-chúa Thiên Cực được gả cho Lê Phụ Trần, sau sinh ra nhiều con. Lý này không vững, vì năm ấy (1258) Chiêu Thánh đã 43 tuổi, với tình độ y học ngày nay một phụ nữ tuổi 43 cũng khó có thể sinh con; huống hồ y học đời Trần. Vì vậy chúng tôi thuật theo gia phả. Vả người chép gia phả là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Vương là con của vua Thái tông, thì vương chép về phụ-hoàng, mẫu-hậu không sai được. 
Vũ Uy vương tuy là người văn võ toàn tài, lớn tuổi nhất trong các con của vua Thái tông, lại có công trong cuộc phá Mông Cổ lần thứ nhất (1258), nhưng vì là con một cung phi bậc thấp, nên không được truyền ngôi vua. Vả tính tình vương khoáng đạt, cùng vương phi trấn ngư biên cương, không nghĩ đến tranh dành ngôi vua. 

Vương phi Ý Ninh vẫn không chịu:

– Thế Tĩnh Quốc Vương Khang! Anh ấy chẳng là con của Phụ hoàng với Hoàng hậu đấy ư? Dường như anh ấy với anh bằng tuổi nhau thì phải.

– Em hỏi thế thực phải. Em nên nhớ Tĩnh Quốc vương Khang, lớn tuổi hơn hoàng tử Hoảng. Vương cũng là con của mẫu hậu Thuận Thiên, tức cũng là cháu ngoại của vua Lý Huệ tông. Nhưng thực sự, vương không phải là con của phụ hoàng. Vì khi mẫu hậu Thuận Thiên có thai ba tháng với An Sinh vương Trần Liễu, thì bị Thái sư Trần Thủ Độ ép vào cung, rồi sinh ra vương, thì vương là con của An Sinh vương. Vả tư chất của anh ấy đần độn, học văn không thông, luyện võ không thành; như vậy không thể được lập làm thái tử, không thể được truyền ngôi vua.

– Bây giờ em mới hiểu hết những uẩn khúc trong cung đình nhà mình. Theo chiếu thư Mông cố thì họ đòi phụ hoàng phải gửi con trưởng sang làm con tin. Sao phụ hoàng cũng như triều đình không gửi anh Quốc Khang mà lại gửi anh?


Khởi Nguyên Mobile

Hồi (1-61)


<