Vay nóng Tima

Truyện:Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử - Hồi 05

Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử
Trọn bộ 61 hồi
Hồi 05: Bắt Tướng Giữa Ba Quân
5.00
(một lượt)


Hồi (1-61)

Siêu sale Shopee

Vương phi Ý Ninh hỏi:

– Như vậy những sứ đoàn sang Đại Việt đều là của Hốt Tất Liệt chứ không phải của Mông Ca?

– Đúng vậy, y mạo danh!

– Như thế chúng tôi không phải tới Hoa lâm làm con tin?

– Vâng.

– Trong Câu khảo cục, anh giữ nhiệm vụ gì?

– Điều tra về tài chánh. Phụ trách toàn quyền vùng Hà Bắc, Sơn Tây, Sơn Đông, Yên kinh.

– Ý của triều đình Đại Việt là làm sao cho Mông Cổ chịu lui binh, và không trở lại báo thù. Vậy chúng ta phải làm những gì?

– Trong hoàn cảnh hiện nay thì không khó. Đưa ra điều kiện bắt Đại Việt phải tuân theo là Hốt Tất Liệt, chứ không phải là triều đình Mông cổ. Nếu bây giờ chúng ta làm thế nào để Mông Ca giải trừ binh quyền của Hốt Tất Liệt, tất cả bọn tướng sĩ vùng Đại lý, Tây tạng, Cam túc, Tứ xuyên phải theo về Mông Ca. Chúng như rắn mất đầu, bị Mông Ca nghi ngờ thì yên.

Vũ Uy vương lắc đầu:

– Nếu như Hốt Tất Liệt bị giải trừ binh quyền, thì di chúc của Thành Cát Tư Hãn vẫn còn đó. Mông Ca sẽ phải thân chinh đánh Tống, thay Hốt Tất Liệt. Mông Ca vẫn phải duy trì đạo binh từ Nam đánh vào Lưỡng quảng bằng bộ binh, kị binh và thủy binh. Mông cổ vốn sống ở vùng Thảo nguyên, giỏi về Kị binh, mà dở về thủy binh. Y sẽ phải đánh Đại Việt để lấy thủy binh đánh vào ngang hông phía Đông của Tống.

Đến đó Thanh Nga vào với cái khay, trên đựng ba chén nước chè tươi. Nàng bưng một chén, nghiêng người trao tận tay A Đa:

– Em mời anh xơi chè tươi đất Việt.

Vương phi nháy Thanh Nga:

– Em không được vô phép. Đây là ngài Tham tri chính sự của đại quốc, em phải gọi là Ngài mới đúng. Còn xưng hô theo bình dân thì A Đa ngang vai với chúng ta, em được quyền gọi là anh.

Thanh Nga liếc mắt nhìn A Đa:

– Dạ, ngài A Đa bảo em gọi ngài bằng anh, thì em gọi là anh cho thân mật. Vả lại một nam tử tuổi trẻ, khôi ngô thế này mà gọi là Ngài nghe không thân mật tý nào cả.

– Thôi được, em lui thôi.

Thanh Nga lại liếc mắt nhìn A Đa mỉm cười rồi lui ra ngoài. Thanh Nga ra rồi, A Đa còn rung động. Khi mới gặp Thanh Nga, vẻ đẹp tươi thắm, cử chỉ thanh nhã, lời nói ngọt ngào khiến hồn phách A Đa như bay bổng lên trời. Rồi hôm nay Thanh Nga như bóng tiên nga, thướt tha ra vào, một lần nữa y rung động mãnh liệt. Quên mất đang ngồi đối diện với Vũ Uy vương, y ngơ ngẩn nhìn theo Thanh Nga. Một ước vọng kín đáo nổi lên trong thâm tâm y:

 “ Bất cứ Vũ Uy vương muốn gì ta cũng tuân theo. Như vậy ta xin vương gả Thanh Nga cho ta, thì hạnh phúc biết bao!”  

Vũ Uy vương biết con nai đã lọt lưới, vương nhắc:

– Đại hãn Mông cổ thành lập Câu khảo cục chắc có mục đích sâu sa hơn là điều tra tội trạng Hốt Tất Liệt?

A Đa bừng tỉnh trở về với thực tại:

– Mông Ca sai A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình và tôi vào Trung nguyên với mục đích điều tra Hốt Tất Liệt, tỉa vây cánh của y. Vậy thế này, ngày mai, hội với A Lan Đáp Nhi, anh cứ luôn miệng ca tụng Hốt Tất Liệt, khen Hốt Tất Liệt áp dụng Hán pháp thành công. Dân Hán, Kim, Liêu, Tây tạng, Đại lý coi Hốt Tất Liệt như một hiền vương. Trong câu truyện, anh như không biết có Mông Ca trên đời. Hoặc coi Mông Ca như phiên vương của Hốt Tất Liệt. À ngày mai A Lan Đáp Nhi sẽ hỏi anh chị về việc Hốt Tất Liệt đã đòi Đại Việt nộp những gì? Lương thực? Châu báu? Chiến mã?

Chợt tiếng Tạ hầu lọt vào tai vương phi:

« Hãy nói theo tôi ». 
Vương phi đưa mắt nhìn chồng, rồi nói theo Tạ hầu:

– Suốt hai năm qua, Hốt Tất Liệt luôn sai sứ sang đòi cống phẩm. Đại Việt đã vét quốc khố dâng cho y hai lần. Đến lần thứ ba, vì quốc sản kiệt quệ, không còn gì dâng nữa, y mới sai Ngột Lương Hợp Thai xua quân vào tàn phá Thăng long.

A Đa mở to mắt:

– Có việc ấy ư? Đại Việt đã nộp cho y những gì?

Vương phi vẫn nói theo Tạ hầu:

– Chúng tôi không nhớ hết. Tuy nhiên những cống phẩm, sứ Đại Việt nộp cho Hốt Tất Liệt, chính viên Thị thần của Hốt Tất Liệt là Tắc Chi Chiên biên nhận, có kiềm thự ấn của Hốt Tất Liệt. Ngay mai tôi sẽ trình sổ cống phẩm cho A Lan Đáp Nhi.

– Hốt Tất Liệt lạm quyền quá đáng. Y sẽ bị Mông Ca tước hết binh quyền.

Vương phi tán thưởng:

– Ý kiến hay. Liệu ta có thể khiến Hốt Tất Liệt ly khai với Mông Ca không? Nếu y tỏ ý ly khai với Mông Ca, thì Mông Ca phải xuất quân đánh dẹp. Mông Ca chỉ còn vùng Mông cổ, binh lực bị phân tán. Còn Hốt Tất Liệt trở thành một ông vua Hán. Anh em Mông cổ đem quân đánh lẫn nhau.

– Khó! Nếu tôi gặp anh chị trước đây một năm thì được. Trong việc điều tra, tôi làm cho bọn quan lại, tướng sĩ của Hốt Tất Liệt bị uy hiếp tính mạng, bị đe dọa mất chức. Chúng lâm đường cùng. Mặt khác, Hốt Tất Liệt trước tình thế không đừng được phải chống Mông Ca. Nhưng nay thì hơi trễ rồi.

– Vì sao?

A Đa lắc đầu:

– Suốt một giải lãnh thổ của Hốt Tất Liệt, bọn quan lại, tướng sĩ bị Câu khảo cục xử tử, hoặc cách chức, thay bằng những người của Mông Ca, hoặc những người bất mãn với Hốt Tất Liệt, khiến y muốn làm phản cũng không được.

– Có cách nào khác không?

A Đa cương quyết:

– Bị bại trận, bị chạm tự ái là Hốt Tất Liệt. Điều này khiến Mông Ca vui lòng. Tôi dám chắc anh chị đi sứ sẽ khiến Mông Ca bỏ ý định đánh Đại Việt. Nếu khi Mông Ca yêu cầu Đại Việt chịu binh dịch, ta cứ làm như thế… như thế… Thôi trời gần sáng rồi tôi phải về, chiều mai anh chị tới họp với A Lan Đáp Nhi ta cứ làm như kế sách đã bàn.

A Đa đứng lên, y ngập ngừng chưa muốn rời bước. Vương phi lên tiếng:

– Năm cô tiên nữ Đông hoa đâu?

Cả năm thiếu nữ đều xuất hiện. Nhưng các cô đã thay nhữõng bộ áo tứ thân, khăn, dây lưng mầu sắc bằng bộ quần áo thiếu nữ nông thôn, áo cánh, váy lụa đen dài tới đất.

Thanh Nga tiến lại bên A Đa, nàng kéo cổ y xuống, ghé miệng vào tai nói sẽ:

– Anh về đừng quên em nghe! Cố gắng tìm cách gặp lại em. Đừng để em phải mỏi mắt trông chờ.

Nàng lại trao cho y một gói nhỏ:

– Trong này có cái váy và cái áo lót em mặc hôm bị anh bắt cóc. Em gửi anh, anh đem theo để trên đường xa vạn dặm như lúc nào cũng có em bên cạnh.

Thanh Nga cầm phách gõ, cả bọn Đông hoa cùng tấu nhạc. Nàng cất tiếng hát theo điệu hát Xẩm:

Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Ngồi cành trúc, dựa cành mai.
Phận em liễu yếu biết ai thương cùng.

Rồi nàng lại đổi sang hát Ả Đào:

Vạn dặm gian nan, xin chàng bảo trọng,

Căn nhà tranh thiếp dựa bóng trông chờ.
Lòng này ngày nhớ đêm mơ.
Đại bàng tung cánh, phận thơ khóc thầm.
Bao giờ gặp lại tri âm?

  Tiễn Ngột A Đa về rồi, vương với vương phi mời Tạ Quốc Ninh bàn luận. Vương hỏi:

– Ban nãy thầy nói sao thì Ý Ninh nói vậy. Nhưng thưa thầy, mình đâu có nộp gì cho Mông cổ? Chúng chỉ đòi lương thảo, chứ đâu có đòi châu báu?

Tạ hầu cười:

– Chúng sang cướp của, giết người mình thì mình không cần đạo đức tử tế với chúng. Chúng không đòi châu báu thì mình cứ vu khống cho chúng, để chúng ghen ăn với nhau. Chúng sẽ chém giết nhau, cho nước mình được yên.

Hầu nghiêm nghị tiếp:

– Vương gia ơi! Từ khi Hốt Tất Liệt vào Trung nguyên, y chỉ giữ binh quyền. Còn đảm trách thuế má, tài vật thì do một tên Thị thần của Mông Ca là Tắc Chi Chiên nắm. Tắc Chi Chiên thu tài vật không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng y chỉ nộp vào quốc khố của Mông Ca một phần, còn bao nhiêu y nộp vào công khố của Hốt Tất Liệt.

Vương phi xen vào:

– Nay ta vu cho Tắc Chi Chiên đã thu của ta thực nhiều châu báu, để tăng thêm tội trạng Hốt Tất Liệt lên.

– Đúng như phi bàn. Cuộc chiến vừa qua, ta bắt được khá nhiều tù binh. Trong đó có một tên phụ trách tài vật của Hốt Tất Liệt. Y dưới quyền trực tiếp của Tắc Chi Chiên. Y mang theo một số sổ biên nhận cống vật, có chữ ký sẵn của Tắc Chi Chiên, kiềm thự ấn của Hốt Tất Liệt. Khi một Hành tỉnh, hay một phiên thần nộp vàng bạc, châu báu thì chúng biên vào hai cuốn sổ khác nhau. Một cuốn y giữ, một cuốn sứ thần giữ làm tin. Bây giờ ta chỉ cần đem hai ba cuốn sổ ấy ra ghi thực nhiều vàng bạc, châu báu vào, rồi ngày mai, trình cho A Lan Đáp Nhi, là y tin ngay. Theo như lời Ngột A Đa thì viên Thị thần Tắc Chi Chiên đã bị A Lan Đáp Nhi xử tử rồi, thì mấy cuốn sổ ta đưa ra là chứng cớ không ai có thể chối cãi.

Vũ Uy vương soạn một tấu chương, thuật tất cả những gì đã xẩy ra, sai chim ưng mang báo cho Khu mật viện ở Thăng long.

Sáng hôm sau, vương vừa thức giấc thì La An bước vào trình cho vương ba ống đựng thư do chim ưng mang tới. Vương mở ống thứ nhất ra trong có một chỉ dụ rất dài, do Hưng Đạo vương ký. Oáng thứ hai, và ba là hai tập sách nhỏ, viết bằng chữ Thổ phồn, là văn tự chính thức của Mông cổ.

Tạ hầu cầm hai tập sách mỏng đọc, hầu cười:

– Đây là hai cuốn ghi cống phẩm giả mà thật. Ngày mai ta trao cho A Lan Đáp Nhi, y sẽ mừng vô cùng.

Vũ Uy vương trao tất cả cho vương phi:

– Chúng ta cứ theo đúng lệnh của Hưng Đạo vương mà làm. Anh nghĩ ít nhất cũng khiến Câu khảo cục có đủ chứng cớ tâu về cho Mông Ca, để Mông Ca thu binh quyền Hốt Tất Liệt. Khi Hốt Tất Liệt bị thu hồi binh quyền, thì toàn bộ văn quan, võ tướng Mông cổ tại Kim, Liêu,Tây hạ, Đại lý, Trung nguyên vốn là người của y sẽ bị thay thế, xáo trộn, có thể sẽ xẩy ra nội chiến. Sức mạnh của Mông cổ tại những vùng này bị tan rã.

– Em nghĩ đến việc khi Hốt Tất Liệt bị giải trừ binh quyền, thì Mông Ca lại đích thân cầm quân đánh Tống. Y lại theo kế sách cũ của Hốt Tất Liệt bắt mình chịu binh dịch đánh phía Nam của Tống, cung ứng lương thảo.

– Bấy giờ ta đã ở Hoa lâm! Tùy thời cơ hành sự. Việc quan trọng là ta nắm chặt Ngột A Đa. Được Ngột A Đa thì coi như Câu khảo cục trong tay ta. Hôm nay, khi thảo luận với A Lan Đáp Nhi, anh sẽ giữ thái độ im lặng. Một mình em nói cũng đủ rồi.

Vũ Uy vương cho tổ chức buổi họp toàn sứ đoàn gồm vương, vương phi, Tạ hầu, Dã Tượng, ban Đông hoa và La An.

Vương thông báo tất cả những tin tức cho sứ đoàn biết. Vương phi nhắc lại:

– Chúng ta sắp sửa lên đường đi Hoa lâm. Trước hết phải vào Tứ xuyên, tới Lạc dương, rồi đi Yên kinh (Bắc kinh ngày nay), từ Yên kinh đi Khai bình, rồi từ Khai bình đi Hoa lâm. Mông cổ sẽ cung cấp phương tiện cùng cử người hộ tống ta. Dọc đường. Ta với vương luyện võ cho các em. Tạ hầu tiếp tục dạy văn, dạy tiếng Mông cổ cho cả đoàn. Tới Hoa lâm chúng ta được cấp dinh thự ở. Một cuộc sống mới bắt đầu. Nhưng…

Phi nói chậm chậm:

– Chúng ta ở Hoa lâm ít thì một năm, nhiều có khi cả đời. Vương với ta, Tạ hầu, Dã Tượng, La An cùng những người phục dịch thì không có gì phải quan tâm. Nhưng năm em. Năm em là gái, đang tuổi dậy thì, nhan sắc, tài hoa thực hiếm. Nếu một năm, hai năm về nước rồi lấy chồng thì không sao. Nhưng lỡ năm năm, mười năm mới về thì sao? Trong khi hoa nở có thì.

Vương cương quyết:

– Ta quyết định, nếu sau hai năm mà chúng ta chưa về nước, thì ta sẽ kiếm những đấng trượng phu, gả chồng cho các em. Nếu chồng các em là những văn thần, võ tướng Mông cổ thì sẽ có lợi cho Đại Việt.

Vương phi chỉ Dã Tượng, Thanh Nga:

– Tại bến Bắc ngạn, Thanh Nga treo bảng tuyển phu. Dã Tượng trúng. Nhưng Dã Tượng cương quyết chưa muốn vướng thê nhi, để lo quốc sự. Thím biết cháu là con nuôi của Hưng Đạo vương, thì trên đời này không gì quan trọng bằng quốc sự. Cháu coi Thanh Nga như cô em gái, cái chí đó chú thím không thể bắt cháu thay đổi. Ngược lại Thanh Nga nhất định trao cả cuộc đời cho cháu. Bây giờ xẩy ra vụ Ngột A Đa. A Đa là con của Tây Viễn vương, lại đang giữ chức Tham tri chính sự triều Mông cổ. Từ gia thế, cho đến tài năng, tư cách đều xứng đáng làm chồng một trong năm em. A Đa sủng ái Thanh Nga cực kỳ. Vậy, trước hết Dã Tượng, con định sao?

Dã Tượng hiên ngang:

– Thưa thím, Thanh Nga là em của chú thím. Con nghĩ chú thím gả Thanh Nga cho Ngột A Đa là phải. Ngột A Đa yêu thương Thanh Nga vô bờ bến. Như vậy A Đa tuy làm quan với Mông cổ, nhưng tâm trí y thì Thanh Nga nắm trong tay. Con tin rằng Thanh Nga sẽ làm được đại sự cho xã tắc, hơn thế nữa Thanh Nga gặp thanh phúc.

Nghe Dã Tượng nói, Thanh Nga òa lên khóc, nàng núp sau lưng vương phi:

– Chị ơi! Em không lấy chồng Mông cổ đâu!

– Em ơi! Ngột A Đa là người Việt mà.

Thời bấy giờ uy quyền của vua chúa, cha mẹ rất lớn. Khi vua chúa gả chồng cho một cô gái nào, thì gia đình cũng như cô gái vinh dự vô cùng. Còn trai gái, việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ đôi bên. Con cái không được hỏi ý kiến. Tục ngữ nói: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Chính Vũ Uy vương với vương phi đã từng trải qua: sau trận Phù lỗ, Nguyên Phong hoàng đế truyền gả quận chúa Ý Ninh cho vương. Cả hai răm rắp tuân theo. Hoàn cảnh của Thanh Nga còn nghiêm ngặt hơn: Vũ Uy vương vừa thay quyền Nguyên Phong hoàng đế, vừa thay quyền cha mẹ. Vương có quyết định gì về hôn nhân, Thanh Nga chỉ biết cúi đầu tuân phục mà thôi.

Tuy vậy vương là người tài trí, là một đấng anh hùng bậc nhất thời Đông A, nên tính tình rộng rãi. Thấy Thanh Nga khóc, vương mủi lòng:

– Em không yêu Ngột A Đa thì thôi. Rồi đây A Đa sẽ cùng ta rong ruổi đi Hoa lâm, biết đâu dọc đường A Đa không phải lòng Thúy Hồng, Thúy Trang, Hồng Nga, Thúy Nga?

Vương phi quyết định:

– Hôm nay chúng ta đi họp với A Lan Đáp Nhi và Ngột A Đa. Ta cần Dã Tượng, hai trong năm em theo hầu. VậyThanh Nga, Thúy Nga đi với chúng ta. Nhớ mang theo cái nhị, ống sáo với trống mảnh.

Vương phi giảng chi tiết những gì hai nàng phải làm với Ngột A Đa.

Cỗ xe song mã, chở Vũ Uy vương, vương phi, Thanh Nga, Thúy Nga do Tạ hầu điều khiển. Trên trời một cặp chim ưng bay theo. Dã Tượng cỡi con Bắc mã đi trước.

Xe đi được năm, sáu dặm thì chim ưng réo lên báo có sự. Vương chỉ về phía trước:

– Có đám cháy đằng kia. Uûa có tiếng vũ khí chạm nhau, dường như có cuộc giao tranh.

Thanh Nga chỉ đám cháy:

– Chị ơi! Đám cháy ở ngôi nhà đoàn Câu Khảo Cục ở.

Vương hạ lệnh:

– Hầu! Hầu cứ cho xe chạy tới.

Xe càng đến gần, tiếng vũ khí chạm nhau càng rõ rệt. Phía trước có ba người quần áo đen, một người cầm đoản đao, một người cầm kiếm, một người cầm côn sắt; chặn ngang đường. Người xử dụng đao nói tiếng Hán:

– Chúng ta đang có truyện phải giải quyết với nhau. Các người không nên đi tới e mất mạng.

Tạ Hầu lờ đi như không nghe thấy gì, không hiểu gì, hầu ra roi cho ngựa lao tới. Tên cầm đao quát lên:

– Quay lại ngay!

Nói rồi y vung đao lên như đe dọa. Hầu gò cương cho ngựa dừng lại, rồi đáp bằng tiếng Hán:

– Chúng tôi có việc khẩn. Xin đại vương cho mượn đường.

Chợt nhìn lên xe thấy vương phi, Thanh Nga, Thúy Nga, tên cầm đao lên tiếng gọi bạn:

– Cha mẹ ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này. Hai đứa bay lại mà coi! Chúng ta ba đứa, mỗi đứa bắt một con đem về, chỉ cần ôm một đêm rồi có chết cũng thỏa lòng.

Thấp thoáng bóng xanh, vương phi vọt người lên, đáp xuống trước mặt y. Lách cách hai tiếng, thanh đao của y gẫy làm ba bốn khúc bay ra xa, còn người y lộn đi hai vòng, nằm thằng cẳng. Phi bay trở về xe, ngồi lại chỗ cũ.

Hai tên áo đen nhìn rõ ràng phi vọt khỏi xe, rồi trở về, nhưng không hiểu phi dùng thủ pháp gì. Cả hai hô lên một tiếng, cùng lao đến vung vũ khí chặt đầu ngựa. Dã Tượng vọt khỏi mình ngựa, chàng quơ tay một cái, đã bắt dược kiếm, côn của hai tên, rồi đứng nhìn. Cả hai cố gắng giật, nhưng kiếm, côn không nhúc nhích. Chàng kéo mạnh rồi buông tay, cả hai tên bay xuống vệ đường nằm thẳng cẳng. Chàng cười nhạt, túm hai tên nhắc lên cao, quay tròn như chong chóng. Ném chúng xuống đất, chàng dẵm chân lên ngực chúng:

– Này! Nếu ta nhả kình lực thì ngực hai anh sẽ xẹp xuống như tờ giấy. Hai anh sẽ ra sao nhỉ?

Hai gã kinh hoảng:

– Tôi xin khuất phục.

– Bọn mi là ai? Tên là gì? Tại sao lại cản đường chúng ta?

– Chúng tôi là ba anh em. Tôi là An Tam. Người dùng kiếm là An Nhất, người dùng côn là An Nhị. Chúng tôi là quân túc vệ của quan trấn thủ Ích châu Vương Kiên. Chúng tôi được lệnh bắt sống bọn Câu Khảo Cục của Thát đát.

– Vương Kiên à? Có phải Vương Kiên trấn thủ Ích châu không?

– Đúng thế.

Vũ Uy vương kêu lên:

– Áy à! Người nhà đánh lẫn nhau rồi.

Vương nhảy xuống khỏi xe giải huyệt cho cả ba tên:

– Các bạn! Các bạn với tôi là người đi cùng đường cả. Chúng tôi là người Việt. Giữa Đại Việt với Mông cổ đang có chiến tranh. Mông cổ cũng đang đánh Tống. Tục ngữ có câu: kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Kẻ thù của chư huynh đệ là Mông cổ, thì chư huynh đệ là bạn của chúng tôi. Ba huynh trở về thưa với Vương trấn thủ rằng Vũ Uy vương bên Đại Việt có lời vấn an.

– Vương Tổng trấn đang đánh nhau với Mông cổ phía trước kia kìa!

– Chúng tôi phải đi tiếp ứng. Ba bạn! Ba bạn nên di cùng chúng tôi.

Tạ hầu ra roi cho ngựa tiếp tục đi. Dã Tượng thúc Bắc mã chạy theo. Ba em họ An lóc cóc chạy bộ phía sau.

Ngôi trang trại Đại lý đã hiện ra phía trước. Trong sân có hai nhóm người đứng đối diện nhau. Một nhóm gồm những người Mông cổ. Một nhóm gồm những người mặc y phục Tống. Có mấy xác chết Tống, Mông cổ nằm rải rác. Nhóm Tống khoảng mươi người. Còn nhóm Mông cổ trên dưới hai chục, lại còn hơn một trăm Lôi kị, ngồi trên mình ngựa dàn ra bao vây.

Giữa sân, hai người đang đấu với nhau, một người to lớn còn trẻ mặc quân phục Mông cổ, y xử dụng đao; một người phự nữ mặc y phục Tống, xử dụng kiếm. Người mặc quân phục Mông cổ, dường như là người Tây vực chứ không phải người Mông, hay người Hán: râu tóc vàng hoe, mũi cao, mắt xanh.

Kiếm pháp của người phụ nữ rất tinh diệu, còn đao pháp của người Tây vực rất thô kệch nhưng hung dữ.

An Nhất chỉ phụ nữ nói:

– Người đang đấu kiếm kia là sư tỷ Minh Anh, thuộc phái Nga mi. Sư tỷ là phu nhân của Tổng trấn Vương Kiên.

Thấy xe của sứ đoàn đến, một lão già thủ lĩnh phe Tống lên tiếng:

– Chúng ta, Tống, Mông đang giao tranh, gươm giáo vô tình, người ngoài cuộc hãy lui lại, để khỏi bị tai vạ.

An Nhất nói với vương phi:

– Người lên tiếng là Vương Tiết độ sứ.

Thúy Nga nói với vương phi:

– Chị ơi! Chị định bênh bên nào?

– Bên Tống.

– Chị cho em ghẹo bọn Mông làm chúng điên đầu nghe?

– Ừ. Nhưng em làm gì?

– Chúng em hát một bài ngụ ý ca tụng Tống. Như vậy Tống biết ta bênh họ. Rồi bọn em lại hát một bài bằng tiếng Mông cổ, bọn Mông cổ sẽ phát điên không biết mình bênh ai?

Thúy Nga kéo nhị, Thanh Nga thổi sáo. Rồi Thúy Nga cất tiếng hát một bài hát rất nổi tiếng bằng giọng Hàng châu. Vừa nghe tiếng hát, tiếng nhạc, hai người đang đấu với nhau chí mạng, cùng nhảy lùi lại quan sát những người mới tới.

Phong tiêu tiêu hề,

Dịch thủy hàn.
Tráng sĩ nhất khứ hề,
Bất phục hoàn.

Tạm dịch:

Sông Dịch nước chảy lạnh lùng tê,

Tráng sĩ một đi không trở về.

Nguyên thời Xuân thu, Chiến quốc, vì Tần Thủy Hoàng đang lăm le diệt nước Yên. Thái tử Đan muốn ám sát y, mới mộ một kiếm khách tên Kinh Kha, giả sang Tần tu cống, rồi hành sự. Khi Kinh Kha lên đường lúc qua sông Dịch, hùng khí bốc lên, tóc dựng đứng, ngâm hai câu thơ trên. Hai nàng Thúy Nga, Thanh Nga ca bài này ngụ ý khen những người bên Tống anh hùng như Kinh Kha.

Nghe bản hát, bọn người bên Tống hiểu rằng sứ đoàn là người Hán đến tiếp viện.

Bản nhạc dứt, nàng lại hát một bài hát vùng Thảo nguyên mà Tạ Quốc Ninh mới dạy năm cô Đông hoa trên đường ra biên giới bằng tiếng Mông cổ:

Thanh thanh, mùa Xuân đến,

Đồng cỏ thơm thơm.
Chúng ta phi ngựa, bắn cung!
Nào chim, nào thỏ, nào nai,
Đem về đốt củi nướng ăn.
Thơm thơm, hoa, cỏ,
Chúng ta có Thành Cát Tư Hãn.
Chúng ta ruổi ngựa, cung dương, tên bắn,
Chúng ta là con cháu dòng sói xám,
Đại hãn là con thần mặt trời.

Đám Mông cổ lại tưởng đây là người bên mình. Gã người Tây vực chĩa đao về phía Minh Anh:

– Người mau mau thả A Lan Đáp Nhi ra, chúng ta sẽ mở vòng vây cho. Bằng không thì các người phải chết hết.

Minh Anh không trả lời, bà ra một chiêu thần tốc đâm vào ngực gã. Hai người lại thi triển cuộc đấu.

Nhìn trong đám Mông cổ không thấy A Lan Đáp Nhi với Ngột A Đa đâu, vương bảo vương phi:

– Em vào can họ ra.

Tạ hầu nói lớn bằng tiếng Mông cổ, vương phi nói tiếng Hán giọng Hàng châu:

– Xin ngừng tay.

Vương phi rút kiếm, chỉ thấy thấp thoáng bóng xanh, phi xung vào giữa hai làn đao, kiếm, rồi có hai tiếng loảng xoảng; đao kiếm hai người bay vọt lên không. Phi tung người lên cao, tay bắt đao kiếm, rồi lui lại.

Người Tây vực hỏi bằng tiếng Mông cổ:

– Các người là ai? Tại sao lại xen vào việc của chúng ta?

Tạ Quốc Ninh lên tiếng:

– Chúng tôi là sứ đoàn Đại Việt sang kết hiếu với Mông cổ. Chúng tôi lại có thâm tình với Tống trên hai trăm năm qua. Xin các vị vì chúng tôi tạm ngừng tay.

Vương phi nói tiếng Hàng châu với lão già người Tống:

– Tiên sinh! Phải chăng tiên sinh là Tiết độ sứ Ích châu Vương Kiên của nhà Đại Tống? Tiên sinh từng đánh Mông cổ những trận kinh thiên động địa, tiếng vang tới Đại Việt? Không biết tại sao lại có cuộc giao tranh này?

Vương Kiên chắp tay vái dài:

– Thì ra ngài là Vũ Uy vương của Đại Việt đấy. Năm trước đây bọn Thát đát sang dụ Đại Việt đầu hàng, rồi đánh phía sau chúng tôi. Nhưng Đại Việt hoàng đế không khuất phục, người đánh tan hai mươi vạn binh Mông cổ. Vương gia trấn thủ Bắc cương phá Mông cổ, làm cho Ngột Lương Hợp Thai sợ đến té đái vãi phân ra. Y bỏ chạy về Đại lý, cho đến nay vẫn còn run.

Vương Kiên chỉ nhóm Mông cổ:

– Chúng tôi được tin, khâm sai của Mông Ca hãn là bọn A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình, Ngột A Đa vào Tứ xuyên thanh tra. Chúng tôi quyết bắt sống bọn này, để biết rõ nội tình Mông cổ. Chúng tôi theo dõi chúng đến đây, vừa ra tay, đã bắt được một tên đầu xỏ, thì bọn này tới tiếp viện, rồi chúng tôi bị bao vây.

Ông chỉ vào cái túi bên cạnh:

– Tên A Lan Đáp Nhi bị giam trong túi này.

Dã Tượng hỏi:

– Bọn tiếp viện Mông cổ do ai cầm đầu?

– Là tên mũi lõ, tóc vàng, mắt xanh kia, võ công y rất cao, mà nội lực thì phi thường. Y gốc người Nga la tư, theo hàng Mông cổ, tên y là Đi Mi Trinh.

Vương phi nói với Vương Kiên:

– Xin Tổng trấn mau rút đi, bằng không bọn Lôi kị của chúng tới thì e chúng ta lâm vào tình trạng nhất hổ nan địch quần hồ.

– Chúng tôi đang rút đấy chứ! Nhưng bị bọn này ngăn cản.

Trong khi sứ đoàn đối đáp với nhóm Tống, thì Lôi kị Mông cổ đã dàn ra bao vây cả hai đoàn. Gã Đi Mi Trinh cầm đao chĩa ra:

– Buông vũ khí đầu hàng, bằng không ta ra lệnh buông tên.

Thấp thoáng bóng xanh, vương phi đã kiềm chế Đi Mi Trinh, dí kiếm vào cổ y. Tạ hầu nói:

– Ra lệnh cho bọn Lôi kị hạ cung, lui lại, bằng không kiếm sẽ chặt đầu mi.

Đi Mi Trinh bị kiềm chế quá nhanh, bọn Lôi kị la hoảng, nhưng không dám buông tên, vì sợ chúa tướng bị giết. Đi Mi Trinh hét lớn:

– Các người mau hạ cung, lui lại.

Tạ hầu tiếp:

– Chưa đủ! Lùi lại xa hơn nữa.

Bọn Lôi kị lại lùi xa hơn.

Vương hỏi Vương Kiên:

– Những tên bị Vương tướng quân bắt đâu?

Vương Kiên chỉ vào ái túi bên cạnh:

– Chúng tôi chỉ bắt được tên A Lan Đáp Nhi.

– Kẻ thức thời mới là người tuấn kiệt. Xin Vương Tiết độ sứ thả A Lan Đáp Nhi ra, rồi rút lui. Tôi sẽ kiềm chế tên Đi Mi Trinh cho đến khi nào các vị đi xa.

– Đa tạ vương gia.

Vương Kiên xách A Lan Đáp Nhi trao cho Vũ Uy vương rồi vẫy tay, cùng các thủ hạ lên ngựa, phóng về phía Bắc. Nhưng năm Lôi kị chặn mất lối đi. Dã Tượng quát lớn:

– Lui này!

Chàng xông vào giữa đội hình Lôi kị. Gã ngũ trưởng thúc ngựa chồm lên đầu chàng. Dã Tượng dùng Đảo mã cửu lộ thức, thức thứ nhất tên Mã phi sơn lĩnh. Chàng xuống đinh tấn, hai tay chụp hai chân trước con ngựa, rồi dơ lên cao. Con ngựa hí lên inh ỏi. Dã Tượng đẩy mạnh, con ngựa bị ngã lăn đi hai vòng. Tên ngũ trưởng cũng ngã theo. Bốn Lôi kị còn lại thúc ngựa dẫm lên người Dã Tượng. Dã Tượng lại dùng Đảo mã cửu lộ thức, thức thứ chín tên Mã vĩ phi thiên. Chàng xông vào, chống hai tay lên đầu hai ngựa, lộn một vòng, chàng dã đáp sau lưng chúng. Hai tay chàng nắm hai đuôi ngựa kéo mạnh. Hai con ngựa hí lên inh ỏi, rồi ngã lăn ra. Đám người Tống nhân vòng vây bị hở, phóng vào rừng.

An Tam hỏi vọng lại:

– Kim Sơn tam anh hôm nay được thấy thần lực của anh hùng Đại Việt. Khâm phục vô cùng. Xin cho biết cao danh.

– Trần Quốc Kinh hay Dã Tượng cũng vậy.

Đợi cho đám võ sĩ Tống đã đi xa, vương mở túi lôi A Lan Đáp Nhi ra rồi vung kiếm lên cắt đứt dây trói cho y. A Lan Đáp Nhi bị đám võ sĩ Tống bắt, tưởng khó thoát khỏi cái chết, bây giờ được cứu thoát, y nói với vương phi:

– Xin phi tha cho Đi Mi Trinh.

Vương phi thu kiếm, buông Đi Mi Trinh ra. Diễn biến xẩy ra, bọn Đi Mi Trinh ngơ ngác không hiểu gì: sứ đoàn vừa mới cứu bọn Tống thì rõ ràng là kẻ thù. Ngược lại, sứ đoàn lại cứu A Lan Đáp Nhi thì rõ ràng là bạn. Vũ Uy vương hỏi A Lan Đáp Nhi:

– Thừa tướng! Tham tri chính sự Ngột A Đa đi đâu?

– Sáng sớm nay y nói có việc khẩn, nên lấy 10 Lôi kị đi theo, giờ này cũng chưa về. Không biết có sự gì xẩy ra không?

Trang trại bị cháy mất ba ngôi nhà. Ngôi nhà chính vẫn còn nguyên. A Lan Đáp Nhi mời vương với vương phi vào trong nhà. Y gọi Đi Mi Trinh:

– Người phải canh phòng thực cẩn thận.

Vương cũng dặn Dã Tượng:

– Con chờ chú thím ngoài này. Nhớ chiếu cố cho Thanh Nga, Thúy Nga.

Đợi cho Vũ Uy vương, vương phi vào họp rồi, Dã Tượng dặn hai cô em:

– Các em cứ ngồi trên xe chờ anh. Anh đi có tý việc.

Nói rồi chàng vọt lên lưng con Bắc mã chạy vào rừng, đuổi theo đám người của Vương Kiên.

Phân ngôi chủ khách xong, A Lan Đáp Nhi trình bầy rõ sứ mạng: y tuân chỉ Đại hãn Mông cổ lập ra Câu Khảo Cục, điều tra 141 điều mà Hốt Tất Liệt cùng tay chân đã phạm ở Trung nguyên, Kim, Liêu, Tây tạng, Đại lý. Tại Hà Nam,Thiểm Tây, Sơn Tây, Quan trung, Đông xuyên, Tây xuyên, Câu Khảo Cục đã xử tử mấy trăm bộ hạ của Hốt Tất Liệt. Bây giờ y muốn biết Đại Việt đã nộp cho Hốt Tất Liệt những gì?

Vương phi móc trong bọc ra một cuốn sổ, bìa có ghi hàng chữ Thổ Phồn là văn tự chính của Mông cổ. Đây là cuốn sổ Khu mật viện sai chim ưng gửi cho sứ đoàn sáng nay:

– Cách đây hai năm, đại vương Hốt Tất Liệt sai sứ sang nước tôi chiêu dụ, yêu cầu nộp vàng, bạc, châu báu. Bằng không người sẽ mang đại quân san bằng Giao chỉ. Họ xưng là sứ của Đại hãn Mông Ca. Chúa tôi đã nộp đủ. Đây là cuốn sổ do chính Thị thần là Tắc Chi Chiên biên nhận.

Khi A Lan Đáp Nhi vào Trung thổ, đã bắt giam Tắc Chi Chiên cùng bộ hạ y, tra khảo cực kỳ thảm khốc, rồi kết án phạm 141 điều. Tổng số 217 người bị xử tử hình. Việc Trung nguyên xong, nhóm Câu Khảo Cục tiếp tục lên đường điều tra tại Đại lý, Tây tạng. Song các nơi này Mông cổ mới chiếm được, thuế khóa chưa định, nên Câu Khảo Cục không tìm ra tội trạng. Y định cùng Ngột A Đa sang Đại Việt, nhưng đường đi bị quân của Ngột Lương Hợp Thai trấn đóng, y bàn với Ngột A Đa bắt cóc Thanh Nga, dẫn dụ sứ đoàn tới để tìm thêm tài liệu.

Qua cuộc tiếp xúc hôm qua, A Lan Đáp Nhi tưởng rằng Hốt Tất Liệt chỉ đòi Đại Việt nộp lương thảo như lúa, gạo, đậu, cá khô, tôm khô, chứ không bao giờ y nghĩ rằng hắn bắt Đại Việt nộp vàng, bạc, châu báu.

Y cầm cuốn sổ lên, rõ ràng chữ ký của Tắc Chi Chiên, cạnh đó kiềm ấn của Hốt Tất Liệt. Danh sách gồm:

– Vàng ròng năm nghìn lượng,

– Bạc khối mười lăm nghìn lượng,
– Ngọc trai sáu nghìn viên,
– Vòng hồng ngọc ba trăm đôi,
– Vòng bích ngọc bốn trăm đôi,
– Vòng bạch ngọc hai trăm đôi.
– Đồi mồi một trăm cái.
– Da cọp một trăm tấm.

Đọc xong, y kinh hoàng:

– Không ngờ Đại Việt lại giầu như vậy. Hà! Hốt Tất Liệt mạo xưng sứ thần của Đại hãn, nhận cống phẩm mà không giao về quốc khố. Tôi đã kiểm lại, không hề thấy Đại Việt cống bất cứ cống phẩm nào. Những của báu này không biết Tắc Chi Chiên ỉm đi hay Hốt Tất Liệt ỉm đi? Dầu người nào ỉm đi thì tội vẫn do Hốt Tất Liệt phải chịu.

Vương phi tiếp:

– Vì sợ đất nước bị tàn phá nên chúa tôi vét hết kho tàng dâng cho đại vương. Không ngờ đầu năm vừa rồi người lại sai sứ sang đòi nữa. Chúa tôi không kiếm đâu ra châu báu, đành nộp một số cống phẩm khác.

Vương phi xuất trong bọc ra cuốn sổ thứ nhì trao cho A Nan Đáp Nhi. Y cầm lên xem, cũng vẫn chữ ký nhận của Thị thần Tắc Chi Chiên, có kiềm ấn của Hốt Tất Liệt. Trong cuốn sổ ghi:

– Lụa Nghi Tàm 2 vạn tấm,

– Nhiễu Thụy Khê 1 vạn rưỡi tấm,
– Bạc khối hai vạn lượng.
– Hương liệu ba trăm cân,
– Mật ong hai trăm hũ.
– Da hổ một trăm bộ.
– Ngựa chiến đủ yên cương ba nghìn con.
– Trâu, bò năm nghìn con.
– Gạo nếp hai vạn hộc (1 hộc = 10 kg ngày nay)
– Cá khô hai nghìn cân,
– Tôm he khô một vạn con.

Vương phi tiếp:

– Cuối năm, đại vương sai sứ sang đòi nữa, quốc khố nước tôi trống rỗng. Chúa tôi xin khất, nhưng đại vương không cho, người xua quân vào tàn phá nước tôi. Chúa tôi đành xuất lĩnh quân dân chống lại. Kết quả ra sao Thừa tướng đã biết.

Vương tiếp lời vương phi:

– Đại vương Hốt Tất Liệt nói rằng: vùng đất Hoa Bắc, Kim, Liêu, Tống, Đại lý, Đại Việt được Thành Cát Tư Hãn phong cho người. Người đã tổ chức những vùng thuộc Tống cũ thành một lãnh địa riêng biệt, Mông Ca hãn không có quyền gì ở những vùng này. Nay mai người sẽ đem quân về Bắc, hạ bệ Mông Ca, lên làm Đại hãn. Vì vậy phụ hoàng sai chúng tôi sang làm con tin với đại vương Hốt Tất Liệt, chứ không đi Hoa lâm.

A Lan Đáp Nhi hừ một tiếng:

– Như vậy đây là bằng chứng rõ rệt Hốt Tất Liệt phản bội rồi! Hà! Y không chối cãi được nữa.

Vương phi nghĩ thầm: cần thêm chi tiết cho Mông Ca sợ Hốt Tất Liệt mà ra tay nhanh. Phi than dài:

– Do bị đại vương ép, nước tôi chuẩn bị gửi bốn hạm đội thủy quân cho đại vương dùng để đánh Tống. Còn vợ chồng tôi sẽ làm tướng của người.

A Lan Đáp Nhi được chỉ dụ của Mông Ca làm khâm sai điều tra trên toàn vùng dất Trung nguyên, do Hốt Tất Liệt cai trị những tội lỗi của Hốt Tất Liệt và hệ thống quan lại. Bất cứ ai có tội, được toàn quyền xử tử, cách chức. Nếu Hốt Tất Liệt không có lỗi, cứ bịa đặt ra lỗi. Bây giờ nắm được trọng tội của Hốt Tất Liệt, y mừng chi siết kể. Y nói:

– Vương gia tâu về với phụ vương rằng: Đại hãn Mông Ca là vua Mông cổ, người là con của thần Mặt trời. Quân đội Mông cổ là quân đội của Đại hãn. Người sẽ thu binh quyền của Hốt Tất Liệt, rồi xử tử y. Quân của Đại hãn quyết không sang đánh Giao chỉ để trả thù. Thù Giao chỉ là Hốt Tất Liệt.

Vũ Uy vương nhìn vương phi, dùng lăng không truyền ngữ nói: “ Không ngờ đại sự của ta lại thành công dễ dàng như vậy. Tuy nhiên ta phải khích A Lan Đáp Nhi cho y nổi khùng lên nữa”.

Vương phi làm bộ kinh sợ:

– Thừa tướng nói thì tôi tin. Nhưng mai đây chúng tôi vẫn phải tới trướng của đại vương Hốt Tất Liệt chầu hầu, làm con tin. Đợi khi nào đại vương Hốt Tất Liệt bị thu binh quyền, thì chúng tôi sẽ tới Hoa lâm. Xin Thừa tướng hiểu rằng khắp vùng Hoa Bắc, cho đến Tứ xuyên, Đại lý, Đại Việt không ai biết Mông Ca là Đại hãn, có người còn tưởng đó là một viên tướng dưới trướng của đại vương Hốt Tất Liệt. Họ chỉ biết có Hốt Tất Liệt thuộc dòng Sói xám ở Thảo nguyên, là con của Thần mặt trời mà thôi.

A Lan Đáp Nhi nổi giận cành hông:

– Tôi phải tâu với Mông Ca hãn giết cái thằng em phản bội Hốt Tất Liệt mới hả giận.

Vương phi lại đổ thêm dầu vào căn nhà đang cháy:

– Liệu Mông Ca hãn có đủ sức đấu với đại vương không? Đại vương thường nói: Mông Ca hãn bất tài sao làm Đại hãn Mông cổ? Nay gặp Thừa tướng, ngài nói sao thì chúng tôi tin vậy. Còn việc Mông Ca có thực là Đại hãn hay không, chúng tôi nào có thể tin được? Này Thừa tướng, cái nguy ngay trước mắt chúng tôi là chỉ thấy uy quyền Hốt Tất Liệt bao phủ khắp gầm trời. Ai ai cũng biết. Còn Đại hãn Mông Ca thì chẳng ai nghe biết gì cả. Ngày mai tôi phải đi yết kiến Hốt Tất Liệt.

Vương phi ngập ngừng:

– Về bọn thích khách vừa qua, tôi nghi do Hốt Tất Liệt sai đến. Chứ bọn Tống ở Tứ xuyên lo thủ thân còn chưa xong, lấy hơi sức đâu mà đến đây bắt Thừa tướng?

A Lan Đáp Nhi đành quyết định:

– Thôi thì vương gia cứ đi sứ với Hốt Tất Liệt. Chúng ta sẽ gặp nhau ở Hoa lâm.

Y cho gọi Đi Mi Trinh vào:

– Người là đệ nhất dũng sĩ của ta. Chức người tới vạn phu trưởng đâu có nhỏ? Người theo bảo vệ ta, thế mà người để bọn Tống bắt ta, suýt nguy đến tính mạng. Cũng may vương gia, vương phi cứu kịp. Tội người phải xử tử hình.

Đi Mi Trinh biện luận:

– Thưa thừa tướng bọn này võ công vô cùng cao siêu. Chúng từ phía rừng thình lình đột nhập, nên bọn tiểu nhân bị bất ngờ. Tuy nhiên ngay lập tức bọn tiểu nhân đã bao vây bọn chúng.

– Được ta tha tội cho người. Người tự thị võ công cao nhất thiên hạ, mà sao chỉ một chiêu đã bị vương phi đả bại.

– Bà này dùng tà thuật chứ không phải bản lĩnh chân thực. Tiểu nhân không phục.

Tạ Quốc Ninh lắc đầu:

– Nếu tướng quân muốn, thì tái đấu với vương phi.

– Được. Tôi muốn đấu quyền trước.

Từ trước đến nay A Lan Đáp Nhi chỉ biết Đi Mi Trinh là đệ nhất dũng sĩ Mông cổ. Mông Ca dùng y làm cận vệ. Bất cứ võ sĩ Tống, Tây vực nào cũng bị bại dưới tay y. Vì vậy trong lần kinh lý này A Lan Đáp Nhi mới xin Mông Ca cho Đi Mi Trinh theo. Khi bọn thích khách Tống tới, chính Đi Mi Trinh đã đả bại bốn tên, giết hai tên. Cuối cùng duy một kiếm khách đấu ngang tay với y. Thế rồi chỉ một chiêu vương phi Ý Ninh kiềm chế y dễ dàng. A Lan Đáp Nhi cũng tin rằng Ý Ninh dùng tà thuật. Y muốn Đi Mi Trinh tái đấu với vương phi cho rõ trắng đen.

Tất cả đều ra sân. Bọn Lôi kị đứng vây xung quanh. Vương phi với Đi Mi Trinh đứng đối diện nhau. A Lan Đáp Nhi hô lớn:

– Hãy chuẩn bị.

Y cầm dùi đánh một tiếng trống. Đi Mi Trinh phóng tới phát ra chiêu quyền đến vù một tiếng vào mặt phi. Phi tung mình lên cao. Y đấm vào quãng không, người y lảo đảo. Ở trên không, lưng phi uốn cong, trông đẹp không thể tưởng được. Phi đáp xuống phía sau y. Y quay lại đấm liền hai quyền, phi lách mình một cái, cho quyền y qua đầu mình, rồi thuận tay mượn sức đánh sức, đẩy vào vai, chân quét chân y. Y bị ngã lộn lăn ra xa. Cứ như vậy, sau mười chiêu, Đi Mi Trinh nổi cáu:

– Người chỉ tránh né, không dám trực diện với ta, như vậy không kể.

Vương phi cười:

– Được! Bây giờ tôi sẽ phản công.

Phi vận dương kình phát một chiêu trong Cửu chân chưởng tên Loa thành nguyệt ảnh. Chưởng phong phát ra ào ào. Đi Mi Trinh vung tay đỡ. Binh một tiếng, ngươi y bật tung về sau nằm dài trên đất. Y vọt người dậy như con cá, tấn công vào ngực phi hai quyền. Phi xuất chiêu Thiết kình phi chưởng đỡ. Binh một tiếng, y bay bổng lên cao, rơi xuống đất, quằn quại đau đớn.

Đợi cho Đi Mi Trinh đứng dậy, phi nói:

– Đệ nhất dũng sĩ Mông cổ chuẩn bị, tôi tấn công đây.

Phi vận khí phát chiêu võ trấn môn của phái Mê linh tên Hải triều lãng lãng. Chiêu này có 5 lớp. Lớp thứ nhất ào ào tuôn ra. Đi Mi Trinh thấy chiêu số kỳ ảo, y vung tay phải gạt ngang. Binh một tiếng, y rung động toàn thân. Còn vương phi thì đứng nguyên. Phi phát lớp thứ nhì, lớp này mạnh gấp hai lần lớp đầu. Đi Mi Trinh đứng đinh tấn, dùng hai tay đỡ. Bùng một tiếng, người y choáng váng bật lui liền ba nước, như người say rượu. Đợi cho y đứng vững phi nói lớn:

– Lớp thứ ba. Đỡ này.

Lớp này mạnh gấp đôi lớp thứ nhì, gấp bốn lớp thứ nhất. Đi Mi Trinh nghiến răng dùng cả hai tay đỡ. Người y bay bổng lên cao. Trong khi chới với trên không, rơi xuống cạnh con chiến mã, thì phi phát lớp thứ tư. Lớp này mạnh gấp đôi lớp thứ ba, gấp 8 lớp thứ nhất. Đi Mi Trinh kêu thét lên nằm ẹp xuống đất sau con chiến mã. Aàm một tiếng, con chiến mã đang gặm cỏ ở sân bật tung lên cao, nó hí lên một tiếng thê thảm, dẫy mấy cái rồi nằm im.

Chiêu Hải triều lãng lãng có 5 lớp, khi đã phát hết 4 lớp đầu thì không dừng lại được, phi phải phát lớp thứ 5. Mọi người kêu thét lên, vì chiêu đó trúng Đi Mi Trinh, thì người y sẽ nát ra mà chết. Vũ Uy vương thấy nếu để Đi Mi Trinh chết dưới tay vương phi, thì mưu cầu của Đại Việt với A Lan Đáp Nhi sẽ không thành. Vương hú lên một tiếng inh tai nhức óc, rồi xẹt tới xớt Đi Mi Trinh vọt lên cao. Ở trên cao vương đánh xuống chiêu Phong ba hợp bích, trong bộ chưởng trấn môn của phái Đông A. Hai kình phong gặp nhau phát ra tiếng binh lớn. Người vương với Đi Mi Trinh lại vọt lên cao bật tung ra xa đến 5 trượng. Còn vương phi cũng lùi liền 5 bước để giảm bớt kình lực.

Đi Mi Trinh được vương cứu thoát, y đứng run lẩy bẩy. A Lan Đáp Nhi cũng kinh hồn, tự than:

– Võ công Đại Việt như thế này, hèn gì xưa kia Thiên sứ Trần Thủ Huy và Công chúa Đoan Nghi đã dùng giúp Thành Cát Tư Hãn dựng ra triều Mông cổ từ Đông sang Tây, không ai địch nổi.

Tạ hầu hỏi Đi Mi Trinh:

– Tướng quân có muốn đấu vũ khí không?

– Không! Đủ rồi.

A Lan Đáp Nhi rùng mình:

– Võ công vương phi thấp hơn vương gia một bậc mà đã như thế này rồi, thì hỏi sao A Tan không bị giết, hỏi sao Ngột Lương Hợp Thai, Hoài Đô, A truật không bị bại? Nếu nhị vị giúp Hốt Tất Liệt thì Mông Ca nguy tai.

A Lan Đáp Nhi không thấy Dã Tượng đâu, y hỏi:

– Cái người khổng lồ vật ngã ngựa là gì của vương gia?

– Y là cháu gọi tôi bằng chú.

– Kinh khủng, trên đời tôi chưa thấy người nào có thần lực như vậy. Nếu sau này người đó sang Hoa lâm, tôi sẽ xin phong cho y làm tướng chỉ huy cận vệ cho Đại hãn.

Vũ Uy vương tỏ ý cương quyết:

– Nếu như sau này đại vương Hốt Tất Liệt đối trận với Mông Ca hãn, người sai chúng tôi dánh Mông Ca hãn thì chúng tôi chỉ có cách đánh cầm chừng. Chúng tôi hứa không làm lợi cho Mông Ca hãn thì cũng không làm hại.

A Lan Đáp Nhi cảm động:

– Tôi sẽ tâu với Mông Ca hãn rằng để cho Đại Việt là phiên thần trung thành phương Nam, hơn là đem quân đánh. Đại Việt là nơi rồng nằm hổ phục. Đánh sẽ lĩnh thất bại như Ngột Lương Hợp Thai, chi bằng để yên mà được một nước anh hùng làm phên dậu.

Có tiếng ngựa hí, rồi mười kị mã đang vào trong sân. Trong 10 kị mã có Ngột A Đa. Nhìn những xác chết của Lôi kị, chiến mã cũng như của đám võ sĩ Tống rải rác trong sân, A Đa kinh ngạc hỏi:

– Đại huynh! Cái gì đã xẩy ra?

A Lan Đáp Nhi tóm lược:

– Bọn võ sĩ Tống tập kích. May được vương gia cứu ứng.

A Đa ra lệnh cho thủ hạ dọn dẹp xác chết, nét mặt y lạnh lùng như không biết truyện gì đã xẩy ra.

A Lan Đáp Nhi cung tay:

– Xin mời sứ đoàn ở lại dùng bữa cơm với chúng tôi. Không biết vương gia có thời giờ không?

– Đa tạ Thừa tướng.

Nhìn thấy Thanh Nga với Thúy Nga, Ngột A Đa tiến tới, nói bằng âm thanh nhu nhã:

– Hai em cũng theo vương gia tới đây sao?

Thúy Nga mỉm cười:

– Chúng em xin đi theo vương, để hát cho anh nghe đấy. Anh bằng lòng không?

Nghe câu nói tình tứ của người đẹp, lòng Ngột A Đa nhũn ra. Y nói với A Lan Đáp Nhi:

– Xin đại ca thù tiếp vương gia, vương phi cùng Tạ hầu. Đệ xin tiếp hai vị cô nương.

Vương phi biết A Đa say Thanh Nga với Thúy Nga, nên muốn thù tiếp riêng để có dịp gần hai nàng. Phi dặn:

– Hai em phải lễ phép với ngài Tham tri nghe!

– Dạ! Em nhớ lời chị.

Bấy giờ trời đang giữa mùa Xuân, trăm hoa đua nở. Trang trại tuy rộng lớn nhưng trồng có ba loại hoa, một là hoa đào, hai là hoa hồng, ba là hoa trà. Riêng trà có tới 10 loại. Khắp trang trại như một rừng hoa. A Đa đặt tiệc trong căn nhà nghinh phong nằm giữa các bồn hoa. Y nở nụ cười thực tươi, xoa hai tay vào nhau:

– Những khóm hoa trà này mới nở hôm qua. Hôm nay anh mời hai em cùng thưởng hoa, thưởng thức thổ sản của Đại lý.

Dù đã được Vũ Uy vương cho biết rằng Ngột A Đa là con của Tây Viễn vương Trần Tử An. Hồi niên thiếu vương theo Thành Cát Tư Hãn chinh chiến khắp nơi, nên mọi giáo huấn con cái do phu nhân đảm trách. Bà Tử An xuất thân là một ca nhi trong đội nhạc cung đình triều Lý. Khi sống ở Mông cổ, bà không tiếp xúc với nhiều ngươi, nên bà chỉ biết nói những câu thông thường. Một mẹ, một con sống cô lập, bà sợ con quên nguồn gốc, nên dạy con nói tiếng Việt, văn hóa Việt. Vì vậy trong tâm A Đa, cái gì của Việt cũng đẹp, cũng tốt. Bây giờ y được gặp năm thiếu nữ Việt giữa tuổi trổ hoa, lại đàn ngọt hát hay. Y say mê ngay Thanh Nga đến điên đảo thần hồn.

Thanh Nga nhận ra rằng Ngột A Đa là con người thanh lịch, chứ không giống bọn Mông cổ cộc cằn dữ tợn. Nàng cảm động hỏi:

– Em muốn hỏi anh một truyện.

– Em cứ hỏi.

– Anh là đại quan Mông cổ, mà anh lại nói tiếng Việt rất văn hoa. Hơn nữa anh thích nghe bọn em hát những bài hát Việt. Hồi đầu em ngạc nhiên, Vũ Uy vương với vương phi cho em biết anh là người Việt, hơn nữa là con nhà danh gia thì bọn em mừng chi siết kể. Không biết song thân có đặt cho anh cái tên Việt nào chưa?

– Mẹ anh đã đặt cho anh là Trần Đại Việt.

– Úi chà, tên này oai lắm. Từ nay bọn em gọi anh bằng cái tên này nghe?

– Được, nhưng chỉ gọi khi chúng ta bên nhau, chứ không nên gọi trước mặt người Mông cổ.

Thúy Nga nghĩ thầm:

– Đại Việt đang say mê Thanh Nga, mà Thanh Nga đã là vợ chưa cưới của anh Dã Tượng rồi, e rằng Đại Việt sẽ tuyệt vọng. Với một người như Đại Việt, bất cứ cô gái nào cũng phải ước ao được chàng chiếu cố. Sáng nay vương phi Ý Ninh dặn ta tìm cách nhảy vào thay Thanh Nga, bắt con nai A Đa, gỡ rối cho mối tình tay ba này. Không biết ta có làm nổi không?

Nghĩ vậy nàng hỏi:

– Anh Đại Việt này, anh đã từng học nhạc chưa?

– Không! Anh là một người thô lỗ. Từ bé chỉ biết cỡi ngựa bắn cung. Nhưng anh thích nhạc Việt, thích nghe các em hát, vì anh đã được mẹ anh hát cho nghe. Các em hát hay hơn mẹ anh nhiều.

A Đa nhìn thẳng vào bộ ngực căng no của Thúy Nga, miệng y nuốt nước miếng ừng ực:

– Hôm trước anh đe dọa Thanh Nga rằng anh sẽ bắt Nga đem về Mông cổ, khi nào Nga với anh có mười con anh mới cho Nga về quê. Vậy Nga có sợ không?

Đúng ra Thanh Nga phải trả lời rằng em sợ lắm vì em là vợ Dã Tượng rồi. Chợt nhớ lời vương phi:

“ Em đã đốt lên ngọn lửa trong tâm A Đa. Em phải cố làm cho ngọn lửa đó không những không tắt, mà còn bùng lên cao hơn. Em đừng quên các anh thư thời Lĩnh Nam xung trận chặt đầu giặc. Bây giờ em nở nụ cười, liếc khóe mắt đưa tình mà thắng giặc thì khác gì múa kiếm, vung đao”. 

Nàng lại nghĩ đến 162 tướng thời vua Trưng, anh hùng là thế, được thờ khắp nước. Tại sao nàng không hy sinh cho đất nước? Nàng vờ e thẹn trả lời trái với lòng mình:

– Em chỉ là cô bé thôi, mà được một danh nhân như anh chiếu cố thì cầu mà không được.

A Đa tuyệt không ngờ Thanh Nga lại nói câu đó, trống ngực y đánh bùng bùng. A Đa nói trong hơi thở:

– Anh tưởng trên đời chỉ có mình Thanh Nga xinh đẹp, duyên dáng; không ngờ cả năm cô đều đẹp, mỗi người một vẻ. Hôm qua anh đã may một cái túi gấm, rồi ướp hoa, anh dùng để bắt cả Thanh Nga lẫn Thúy Nga.

Thúy Nga nguýt A Đa:

– Anh chỉ có quyền bắt Thanh Nga thôi. Anh không có quyền bắt em.

– Anh bắt em cho đại ca A Lan Đáp Nhi. Đại ca thấy anh mết Thanh Nga. Anh ta cũng muốn có cô vợ đẹp, ca hát giống Thanh Nga. Anh nghĩ Thúy Nga nên làm phu nhân Thừa tướng Mông cổ có phải lợi cho Đại Việt không? Thúy Nga ưng không?

Thúy Nga đùa:

– Em ưng gấp.

– Em nhớ lấy lời nghe.

Đại Việt cười sảng khoái, tiếng cười dòn như suối reo:

– Lát nữa đây anh sẽ nói truyện với anh Duy, với chị Trần Ý Ninh xin cưới Thanh Nga ngay ngày mai. Anh cũng xin anh Duy gả Thúy Nga cho A Lan Đáp nhi. Nếu Thanh Nga từ chối thì anh cho Lôi kị bắt sống.

Thanh Nga kinh hoảng nghĩ thầm:

– Cái anh này là người Việt tha hương, yêu nước nồng cháy con tim. Bây giờ hoàng đế Nguyên Phong cũng như Vũ Uy vương đang cần sự giúp đỡ của anh ta. Anh ta mà ngỏ lời thì ông bà bằng lòng ngay. Truyện ta với Dã Tượng hóa ra một tuồng ảo mộng ư. Làm sao bây giờ?

Tuy vậy, nghe Đại Việt thổ lộ chân tình, Thanh Nga cảm động, má đỏ au lên, mặt nóng bừng, môi khô. Nàng cố lấy can đảm nói:

– Em biết anh dành cho em những bông hoa tình yêu nồng thắm. Em cũng biết với địa vị của anh thì không thiếu gì giai nhân Mông cổ, Tây vực, Trung nguyên ước mơ được làm vợ anh. Thế nhưng anh lại yêu con bé nhà quê này. Em đâu phải khúc gỗ mà không cảm động? Nợ tình này em mắc nặng quá, sao trả anh cho nổi? Tiếc rằng em đã trót yêu thương, dành tất cả tình ý cho anh Dã Tượng rồi. Thôi anh bắt Thúy Ngần đi.

Đại Việt cương quyết:

– Anh thề sẽ cưới bằng được em làm vợ. Còn Thúy Nga anh phải bắt cho A Lan Đáp Nhi. Em ơi! Công danh anh có, tài trí anh có, mà anh yêu một giai nhân cũng không được sao? Phải được, bất cứ giá nào cũng phải được. Nếu không được thì anh phải ôm hận cả đời sao?

Nghe Đại Việt nói, Thanh Nga, Thúy Nga nhận thấy Đại Việt đa tình, lãng mạn vô cùng.

Thúy Nga cảm thương cho Đại Việt, bị rơi vào biển tình tuyệt vọng. Hôm trước trên bến Bắc ngạn, Tây viễn vương đã nói với năm nàng: “Phàm trong tình trường, khi gặp trở ngại, người ta càng lao vào, tình càng thêm thâm sâu”. Nàng lại thương hại cho cả Thanh Nga. Thanh Nga dành tất cả yêu thương cho Dã Tượng, nhưng Dã Tượng lại dồn hết tâm trí cho Xã tắc, cho tộc Việt. Nếu như Dã Tượng yêu một cô gái khác, có thể một ngày nào đó anh thay đổi. Đây người thiếu niên này quá cao cả, tình yêu quá bao la, chỉ nghĩ tới đất nước, đến dân tộc thì sao có thể lay chuyển? Hơn nữa anh là con nuôi Hưng Đạo vương, thì lòng yêu nước mãnh liệt không thể tưởng tượng nổi. Vương phi Ý Ninh muốn ta bắt A Đa thay Thanh Nga, mà anh ta lại muốn bắt ta cho A Lan Đáp Nhi. Khó quá.

Ba người vừa ăn vừa hát. Họ quên mất cả thời gian. Khi bóng chiều ngả xuống dẫy núi xa xa thì vương phi xuất hiện. Phi cười:

– Các em ngắm hoa đủ chưa? Chúng ta về thôi.

Hai nàng cùng đứng dậy,Thúy Nga nghiêng nghiêng đầu vuốt mái tóc nói với Đại Việt:

– Chúng ta tạm biệt, hy vọng mai này sẽ được gặp lại nhau.

Vương phi đi trước với Thúy Nga, A Đa đi sau với Thanh Nga. A Đa nhìn Thanh Nga với tất cả yêu thương ngùn ngụt. Không cầm lòng được, chàng nắm lấy cườm tay nàng. Thanh Nga định giật tay ra, nhưng chợt nhớ lời Vũ Uy vương dặn:

“ Em là con gái, trời cho một tấm hồng nhan hiếm có. Khi ra ngoài sẽ có nhiều người bầy tỏ cảm tình. Bất cứ trường hợp nào cũng phải tìm cách từ chối thực nhu nhã”. 

Vương phi dặn:

“ A Đa yêu thương em như lửa cháy, bao la như biển Đông. Dù em chỉ biết có Dã Tượng. Em phải khéo léo trong cung cách đối xử với y. Đất nước mình đang cần đến y”. 

Câu đất nước mình đang cần đến y, nhắc nhở nàng nhớ đến những lần Tạ Quốc Ninh giảng cho nàng nghe về hành trạng của vua Trưng cùng 162 anh hùng thời Lĩnh Nam. Vì vậy nàng không dám giật tay ra. A Đa đi chậm lại, thành ra khi tới sân trước, hai người cách xa vương phi mấy chục trượng.

– Em ơi!

A Đa thì thầm vào tai Thanh Nga: hôm trước em cho anh cái áo lót, lại cho anh cái váy của em. Đêm đêm anh ôm áo, ôm váy của em mà hôn, mà ngủ.

Rồi không cần Thanh Nga đồng ý hay không chàng đeo vào cổ tay nàng chiếc vòng ngọc đỏ tươi có vân trắng:

– Anh tặng em, mong rằng lúc nào em cũng mang bên cạnh.

Tim Thanh Nga đập thình thịch, nàng nói trong hơi thở dồn dập:

– Em! Em đa tạ tấm lòng của người quân tử.

Tay Thanh Nga run lẩy bẩy trong tay A Đa, một cảm giác êm dịu chạy khắp thân, hơi thở của nàng dồn dập. Nàng không muốn gỡ tay mình khỏi tay A Đa. Nàng nghĩ thầm: phải chi người nắm tay nàng là Dã Tượng thì hạnh phúc biết bao?

Có tiếng vương phi gọi:

– Thanh Nga ơi! Về thôi!

Thanh Nga tỉnh giấc mơ Đào nguyên. Nàng khẽ gỡ tay khỏi tay A Đa. Nhớ lời vương phi dặn: dù không yêu A Đa, nhưng vì quốc sự, bất cứ lúc nào, bất cứ hoàn cảnh nào, cũng phải đốt ngọn lửa tình của A Đa ngày càng mạnh. Nàng liếc mắt, nghiêng nghiêng đầu nói với A Đa:

– Em về nghe. Không bao giờ em quên kỷ niệm hôm nay đâu. Chúng ta còn nhiều dịp gặp nhau.

Vừa trở về tới trại, thì La An báo với vương:

– Sáng nay các vị võ lâm Trung nguyên đã tới để đón gia quyến. Họ đóng trại bên đất Việt. Hưng Ninh vương sẽ đem tù binh Mông cổ lên trao cho sứ đoàn. Về phía Mông cổ thì phò mã Hoài Đô loan báo cho biết, họ đã đem gia quyến võ lâm Trung nguyên tới. Ngày mai là ngày trao đổi người của đôi bên.

Vương hỏi:

– Dã Tượng về chưa?

– Đô thống về rồi. Người đang ăn. Cũng sắp xong.

Nguyên trong khi bọn Tống của Vương Liên giao chiến với bọn Mông Cổ của A Lan Đáp Nhi, vương gọi riêng Dã Tượng dặn:

– Lát nữa, bọn Tống rút lui, thế nào Mông cổ cũng dùng Lôi kị bao vây. Cháu dùng thần lực đánh ngã ngựa cho bọn Mông cổ kinh hãi, mở vòng vây cho Tống. Sau đó cháu đuổi theo bọn Tống, ngỏ lời rằng Đại Việt muốn hội với Tống cùng liên hợp đánh Mông cổ. Sau đó cháu cùng họ hẹn nơi bàn việc.

Dã Tượng đã ăn xong, chàng lên gặp Vũ Uy vương. Vương hỏi:

– Cháu gặp lại Vương Kiên, kết quả ra sao?

– Vương nói: chinh sách về Nam biên của Tống không nhất định. Vương xin chú thỉnh ý kiến triều đình rồi hai bên sẽ gặp lại nhau, như vậy mới rõ ràng. Vương hẹn gặp ta tại Hợp châu.

Vào lều họp, vương hỏi phi:

– Em nghĩ mình nên dùng những võ sĩ Tống vào việc gì?

– Họ là những người có chân tài, gặp hoàn cảnh cùng đường mà phải tha hương. Bây giờ ta có hai cách dùng cái tài của họ. Triều đình đã cho họ một khu đất tốt, chu cấp cho họ phá hoang trồng cấy, để cùng gia quyến mưu sinh. Lại khuyến khích họ mở trường dạy văn, dạy võ. Nếu như mai này Mông cổ sang nữa, họ sẽ sát cánh cùng ta chống giặc.

– Phương cách này thực hay. Trước đây phụ hoàng đã từng áp dụng với nhóm của Hoàng Bính. Còn cách thứ nhì?

– Xa quê hương là điều khắc khoải, đau xót. Ta đã dơ tay ra đón họ, lại cứu gia đình họ, ta phải giúp họ trở về quê hương. Vậy em nghĩ mình tìm cách đưa họ trở về Trung nguyên, sống trong vùng cai trị của Tống là điều mà họ ước ao. Ta cần liên lạc với Vương Kiên, rồi đưa họ cùng gia quyến đến Hợp châu sống. Họ sẽ cùng quân Tống chống Mông cổ. Họ giúp Tống chống Mông cổ tức là giúp ta chống Mông cổ.

– Mình nên hỏi ý kiến Vương Kiên trước đã.


Đấu Thần Tuyệt Thế

Hồi (1-61)


<