Vay nóng Tima

Truyện:Giang hồ mộng ký - Hồi 11

Giang hồ mộng ký
Trọn bộ 16 hồi
Hồi 11: Họa Trung Đắc Phúc Uyên Ương Giản-Tuấn Cực Phong Đô Diện Bất Toàn
5.00
(một lượt)


Hồi (1-16)

Siêu sale Lazada

Linh Miêu Tẩu đã biến mất tăm nên Thân Vu Kỳ chẳng kịp hỏi thăm tin tức Trương chân nhân. Chàng tĩnh dưỡng ở chùa Thiếu Iâm ba đêm, sáng mùng tám mới trở về Khai Phong. Huyền Cơ thư sinh đã ở lại Tung Sơn để làm quân sư cho các phái bạch đạo.

Một mình dong ruổi, dãi nắng dầm mưa, Thuần Vu Kỳ chợt nhớ nhung đến những ngày cùng Lang Nha mỹ mhân đồng hành đi Hồ Bắc. Và bóng dáng yêu kiều của Thuần Vu Tiệp cũng hiện về đủ khiến lòng chàng như thắt lại. Giờ thì chàng đã hiểu tại sao kẻ tu hành lại phải xuất gia, cắt đứt mọi quan hệ tình cảm nhất là tình yêu nam nữ.

Trước đây chàng chẳng sở hữu điều gì nên lòng thanh thản như trời xanh lồng lộng, còn giờ đây chàng có quá nhiều điều khiến tâm nhiễu loạn.

Từ Tung Sơn về Khai Phong phải đi qua Tân Hương. Xế chiều hôm sau, tức mùng chín, Thuần Vu Kỳ còn cách thành Tân Hương mười mấy dặm. Chàng khát nước nên dừng cương ghé vào quán bên đường, gọi một bình trà thơm.

Do Thuần Vu Kỳ không chịu để các cao thủ Thiếu Lâm tự hộ tống nên Huyền Cơ thư sinh đã bắt chàng mang mặt nạ và bí mật rời núi Thiếu Thất lúc trời còn mờ sương.

Giờ đây, trong dung mạo một hán tử giang hồ tam tuần, chàng ung dung giải khát, chẳng sợ bị ai nhận ra. Lát sau, thêm một kỵ sĩ ghé vào quán, người này chính là Đồng Quan Thần Phiến Đào Tử Mưu. Lạ thay, họ Đào bước thẳng đến bàn của Thuần Vu Kỳ, vòng tay thi lễ:

- Tại hạ là Đào Tử Mưu, được đồng đạo giang hồ yêu mến đặt cho cái tên Đồng Quan Thần Phiến. Tại hạ từ lâu đã ngượng mộ oai danh của Thuần Vu Kỳ công tử, nay gặp gỡ xin phép được kính công tử vài chung trà.

Thuần Vu Kỳ mỉm cười đưa tay mời gã an tọa rồi ra dấu:

- Sao túc hạ lại nhận ra ta?

Đào Tử Mưu cười khà khà:

- Tại hạ đã cải trang tham dự lễ khai đàn của Trung Nghĩa bang nên nhìn thấy thanh bảo kiếm có chuôi bằng sừng đen của công tử.

Thuần Vu Kỳ gật gù, thầm nghĩ kẻ đại trí như Huyền Cơ thư sinh cũng có lúc sơ xuất. Chàng rót trà mời Đào Tử Mưu và hỏi bằng tay:

- Chẳng hay Đào huynh đi đâu mà lại ghé qua đây?

Đào Tử Mưu gượng cười:

- Thực ra là tại hạ đã cố ý đuổi theo để xin hầu hạ dưới trướng công tử. Chim khôn lựa cành mà đậu, người khôn lựa chúa mà thờ. Tại hạ đã thấu hiểu được lời dạy của Tiết Trang Chủ và quyết đem chút tài mọn ra phò tá công tử giáng ma vệ đạo.

Thuần Vu Ky rất mến mộ tài trí của Đồng Quan Thần Phiến, nên hoan hỉ viết trên bàn:

- Tại hạ chẳng dám nhận vai minh chúa, chỉ xin được cùng Đào huynh kết tình bằng hữu.

Rồi chàng dơ bàn tay hữu ra, Đào Tử Mưu nắm lấy xiết chặt, ngứa cổ cười vang.

Phụ thân của Thần Phiến từng làm Tổng Bộ Đầu ở Tứ Xuyên nên gã thừa hưởng được tài truy án. Nhưng Tử Mưu không phục vụ triều đình mà lại hoạt động bên ngoài.

Nghề thám tử đòi hỏi rất nhiều kiến thức, do vậy, Thần Phiến thông thạo cả tám phương ngữ lớn của Trung Nguyên, cũng như những dấu hiệu của người câm. Trong một vài vụ án, đôi khi nhân chứng là người á tật nên Tử Mưu bắt buộc phải học cách nói chuyện với họ vì đa số họ đều không biết chữ. Ngày xưa, đi học là một việc rất khó khăn, người nghèo khổ thường bị dốt nát.

Nhờ vậy Đồng Quan Thần Phiến dễ dàng giao tiếp với Thuần Vu Kỳ, nhanh chóng tạo sự thông hiểu trong tình bạn. Bối phận của Thuần Vu Kỳ rất cao nên chàng không xưng là tiểu đệ đù nhỏ hơn Tử Mưu mười mấy tuổi. Ngược lại họ Đào cũng không dám xưng anh mà gọi chàng là công tử.

Thuần Vu Kỳ tuyệt nhiên không nhắc đến việc mình hai lần cứu mạng Tử Mưu ở Hồ Bắc và tự Thần Phiến cũng không biết chuyện ấy. Uống cạn bình trà, hai người định rời quán để lên đường thì đám hào khách trong quán cũng đứng lên.

Một gã hồ hởi nói:

- Chiều nay trời đẹp, cảnh vật ở Uyên Ương Giản sẽ cực kỳ diễm lệ, anh em chúng ta mau đến đấy xem cho sướng mắt.

Đào Tử Mưu nghe vậy liền bảo:

- Công tử. Uyên Ương Giản là thắng cảnh thiên nhiên kỳ ảo nổi tiếng khắp thiên hạ, hay là chúng ta cũng ghé qua một lần cho biết.

Thuần Vu Kỳ ra dấu hỏi:

- Nơi ấy thế nào?

Đào Tử Mưu vui vẻ giải thích:

- Uyên Ương Giản còn có tên là Thái Vụ Giản, nằm ờ phía tây đồi Uyên Ương.

Đây là một vực sâu không thấy đáy, quanh năm phủ đầy sương khói. Mỗi lúc hoàng hôn, sương mù bốc cao vài trượng, được ánh tịch dương chiếu vào hóa thành khối mây ngũ sắc rực rỡ, xinh đẹp phi thường. Tại hạ đã được thưởng lãm một lần mà còn muốn quay lại.

Thuần Vu Kỳ vốn là kẻ say đắm thiên nhiên nên phấn khởi tán thành. Hai người lên ngựa đi theo đám hào khách kia, chừng nửa khắc là rẽ phải, thêm ba dặm thì đến đồi Uyên Ương. Vừa đi Đào Tử Mưu vừa giải thích thêm:

- Cái tên Uyên Ương Giản mới có độ bốn chục năm nay, xuất phát từ một cuộc tình bi thảm của đôi tài tử giai nhân đất Tân Hương. Vì vấn đề môn đãng hộ đối mà họ không thể lấy nhau, liền nắm tay nhảy xuống Thái Vụ Giản cho trọn chữ chung tình. Kể từ đấy, Thái Vụ Giản đổi tên và cạnh mép vực có miếu thờ nho nhỏ. Những đôi trai gái đang yêu quanh vùng thường đến cúng tế để cầu cho duyên nợ được viên thành.

Đoàn kỵ sĩ thả ngựa dưới chân đồi hướng đông rồi trèo lên đỉnh. Đồi Uyên Ương chỉ cao chừng ba chục trượng, cây cối xanh tốt mọc lên từ khe của những tảng đá đủ mọi hình thù trông rất hữu tình. Lên đến đỉnh đồi, khách nhàn du không còn bị tàn cây chắn ngang nhãn tuyến sẽ thấy được bức tường mây ngũ sắc kỳ diệu. Ngày mùa hạ dài nhất trong tháng năm nên dù đã bước sang giờ Dậu mà ánh tà dương vẫn còn sáng rực chiếu vào mặt sau của lớp sương chiều trên mặt Uyên Ương Giản phân giới thành những vệt màu tuyệt đẹp.

Bọn hào khách đã nhanh chân lên trước, đứng khá sát bờ vực, để thân hình mình được chìm trong làn sương ngũ sắc huyền ảo kia. Họ luôn miệng trầm trồ khen ngợi, cứ như là đứng ở vị trí ấy thì mới thấy hết được vẻ đẹp diệu kỳ. Đào Tử Mưu cười bảo:

- Ở xa nhìn đã đẹp, nhưng khi chui vào đám mây sặc sỡ ấy chúng ta sẽ có cảm giác như lạc cõi tiên, bởi chung quanh sáng rực sắc màu kỳ lạ.

Nói xong gã kéo tay Thuần Vu Kỳ tiến lên, đứng ngang hàng với những người kia.

Không thể đi sâu hơn nữa vì sương khói chỉ lan quá mép vực chừng gần trượng.

Thuần Vu Kỳ vui vẻ vì có bằng hữu sau nhiều năm cô độc, nhất nhất nghe theo lời Đồng Quan Thần Phiến. Chàng chưa kịp nhận ra cảnh có đẹp hay không thì Đào Tử Mưu đã lùi lại hai bước và vung song thủ đặt vào lưng chàng mà đẩy thật mạnh. Thân hình Thuần Vu Kỳ văng về phía trước, rơi xuống vực sâu thẳm và mù mịt khói sương Bọn hào khách chứng kiến tất cả phá lên cười đắc ý, bước đến với Đào Tử Mưu.

Một gã trung niên không râu vỗ vai họ Đào mà khen ngợi:

- Ngươi quả là có tài đóng kịch nên đã mê hoặc được tên câm khốn kiếp, đưa gã vào tử địa. Công lao to này lão phu sẽ ban thưởng trọng hậu.

Đồng Quan Thần Phiến không hề vui vẻ mà rầu rĩ đáp:

- Tại hạ không cần vàng bạc chỉ mong Phó lão huynh thả gia mẫu là được rồi. Sau việc làm đê tiện, tội lỗi này, tại hạ không còn mặt mũi nào mà làm người nữa. Đào mỗ sẽ thoái xuất giang hồ, lo phụng dưỡng từ mẫu cho đến lúc bà cỡi hạch. Khi đã tròn đạo hiếu, tại hạ sẽ tự sát để đền tội.

Thế là quá rõ. Xảo Quá Thiên đã bắt cóc mẹ già của Thần Phiến, buộc họ Đào phải thi hành độc kế ám hại Thuần Vu Kỳ. Bản lãnh của chàng câm quá cao cường, dẫu trăm người cũng không cầm chân nổi. Do vậy, Phó Từ Phong cho rằng xô chàng xuống vực thẳm là chắc ăn nhất.

Đào Tử Mưu không biết Thuần Vu Kỳ là ân nhân của mình nên đã vì chữ hiếu mà đành mất khí tiết, Xảo Quá Thiên biết nhưng không nói ra, vì rằng Đồng Quan Thần Phiến thà tự sát chứ không giết người ơn. Tử Mưu chết rồi thì Phó Từ Phong có giữ mẹ y cũng vô ích, chỉ tổ tốn cơm.

Bọn sát nhân hớn hở rời đồi Uyên Ương lòng nhẹ nhõm vì đã loại xong một đại kình địch. Riêng Đào Tử Mưu luôn cúi gầm mặt vì hổ thẹn, lòng vô cùng căm hận Xảo Quá Thiên. Chính họ Phó đã biến gã thành một kẻ tiểu nhân, đê hèn, không đáng sống Mấy ngày sau, chẳng thấy ái tử quay về nhà, vợ chồng Thuần Vu Hồng nóng ruột sai Dương Hổ, Hách Nham lên Tung Sơn. Huyền Cơ thư sinh nghe Dương Hổ bỏi han, mặt tái xanh như tàu lá vội bấm độn xem hung cát. Lão ứa nước mắt mếu máo nói:

- Nguy rồi Kỳ nhi đã gặp mai phục, mười phần chết đến chín. Y mà có mệnh hệ gì thì lão phu cũng không thiết sống nữa.

Dương Hổ và Hách Nham chết điếng, nhìn Lư Thiếu Kỳ bằng ánh mắt trách móc.

Định Si đại sư lên tiếng trấn an:

- Thuần Vu thí chủ là bậc cát nhân thiên tướng chẳng thể yểu mệnh được. Hơn nữa, với võ công tuyệt thế ấy thì dầu có gặp phục binh cũng thừa sức thoát trận. Có lẽ công tử họ thương nên đang tạm ẩn mật tĩnh dưỡng nên chưa về Khai Phong. Bần tăng sẽ huy động đệ tử Thiếu Lâm truy tìm ngay.

Lát sau, ba trăm tăng lữ rời núi Thiếu Thất, bủa ra dò hỏi dân cư hai bên đường dẫn về Khai Phong. Huyền Cơ thư sinh, Dương Hổ và Hách Nham cũng tham gia.

Nhưng khổ thay không ai nghe nói gì về một cuộc đánh nhau cả, trên đường cũng chẳng có dấu máu, cỏ vệ đường vẫn tươi tốt không gãy hay nhàu nát vì bị dẫm đạp.

Đoàn người thiểu não kéo về Thuần Vu gia trang báo hung tin và tiếng khóc thê lương của Tiết Như Xuân, Vệ Tịch Cơ, Tiết Mạn Thụy vang lên như xé ruột. Độc Cơ Lạc Anh Châu không khóc, hỏi ngày sinh tháng đẻ của rể quí rồi lập ngay lá số tử vi. Bà xem kỹ và hớn hở nói chắc như đinh đóng cột:

- Cả nhà cứ yên tâm. Kỳ nhi có sao tử vi thủ mệnh tại cung Ngọ, tức Đế Tinh ở chính cung lại chẳng gặp Địa Kiếp, Địa Không thì làm sao yểu mạng được. Y mà chết thì lão thân nguyện tự sát ngay.

Sự kiên quyết của bà đã khiến mọi người được trấn an, Vệ Tích Cơ sụt sùi hỏi:

- Mẫu thân. Vậy chừng nào thì tướng công sẽ quay về?

Lạc Anh Châu tính toán thêm rồi thở dài:

- Đại hạn này quá nặng, e rằng hơn nửa năm sau Kỳ nhi mới hồi gia.

Tiết Như Xuân ngỡ ngàng hỏi:

- Nếu Kỳ nhi chỉ bị thương thì sao lại không về nhà sớm hơn?

Độc Cơ lúng túng đáp:

- Ngu tỷ cũng không thể giải thích được vì sao, chỉ biết rằng sang năm thì vận mạng của Kỳ nhi mới hết u ám.

Tiết Như Xuân buồn rầu bật khóc được Vệ Tích Cơ đưa về phòng. Ở đây, Thuần Vu Hồng nghiêm nghị nói:

- Trên đường không xảy ra cuộc chiến nào thì có thể là Kỳ nhi đã sa bẫy tại điểm dừng chân nào đó. Chúng ta sẽ kiểm tra kỹ từng lữ điếm, từng quán ăn, tất sẽ tìm ra manh mối.

Huyền Cơ thư sinh mang mặc cảm vì có trách nhiệm trong việc mất tích của Thuần Vu Kỳ nên đầu óc hoang mang, chẳng còn sáng suốt. Nay nghe Thuần Vu Hồng nói thế, ông tỉnh táo lại để suy nghĩ và đanh mặt nói:

- Trang chủ rất có lý. Xin cứ thế mà hành động. Phần lão phu phải về ngay Thiếu Lâm tự, tập trung lực lượng ngũ phái để tấn công Trung Nghĩa bang, giải thoát cho Kỳ nhi. Nếu Độc Cơ nói đúng thì chắc là Kỳ nhi hiện bị giam giữ ở núi Tuấn Cực.

Trời đã xế chiều nên sáng hôm sau hai lực lượng mới khởi hành. Lư Thiếu Kỳ và quần tăng phi mau thẳng về Tung Sơn còn Vệ Cửu, Dương Hổ, Hách Nham, cùng bọn công sai Khai Phong chậm rãi điều tra từng khách điếm, tửu quán dọc đường.

Ba ngày sau, bọn Vệ Cửu đến đúng quán nước mà Thuần Vu Kỳ đã gặp Đồng Quan Thần Phiến. Nhưng tiếc rằng quán đã đóng cửa, cả chủ quán cũng về quê. Tiểu nhị là con cái chủ quán nên cũng đi theo, khiến Vệ Cửu chẳng hỏi được gì.

Giờ tác giả sẽ quay lại với Thuần Vu Kỳ, xem chàng trai hiền lành của chúng ta sống chết thế nào. Tất nhiên chàng không thể vong mạng vì truyện võ hiệp luôn như thế.

Thuần Vu Kỳ bị Đào Tử Mưu đẩy văng vào làn sương rực rỡ, rơi thẳng xuống đáy vực mịt mù. Tuy chẳng nhìn thấy gì nhưng bản năng cầu sinh đã khiến chàng dang rộng đôi tay, sẵn sàng chụp lấy bất cứ điểm tựa nào. Trong những giây phút đối diện với cái chết, gương mặt diệu hiền của mẫu thân hiện lên rất rõ và nỗi sợ hãi xâm chiếm hồn chàng. Chàng hiểu rằng mình sẽ mãi mãi không gặp được mẹ hiền. Nỗ lực sinh tồn cuối cùng của Thuần Vu Kỳ là dồn hết chân khí xuống hạ bàn, chịu đựng cú va chạm dưới đáy vực.

Và quả thực là khoa tử vi đẩu sổ của Trần Đoàn Lão Tổ đã có lần linh nghiệm nên Thuần Vu Kỳ rời đúng vào một mảnh lưới rất rộng đan bằng dây leo. Mắt lưới khít đến nỗi một quả trứng gà cũng không qua lọt. Mảnh lưới được căng trên bốn cây gỗ lớn bằng bắp đùi, có lẽ đã lâu năm nên gỗ bị mối mọt. Và một cây đã không chịu nổi sức rơi của thân thể một trăm hai chục cân liền gãy đoạn, bị giật phăng vào giữa, đập trúng đầu Thuần Vu Kỳ, khiến chàng mê man bất tỉnh.

Sáng hôm sau, chàng trai may mắn mở mắt ra, phát hiện mình đang nằm trong một hang đá, trần chỉ cao quá đầu người một chút. Và bên cạnh chàng là một quái nhân tóc bạc bờm xờm, râu trắng dài quá bụng, lông mày cũng chẳng còn sợi nào đen.

Da mặt lão nhân đầy sẹo lồi lỏm, nham nhở như miếng da heo bị chuột gặm vậy. Còn y phục thì rách tả tơi may mà không hôi hám. Lão nhân hỏi Thuần Vu Kỳ bằng một giọng yếu ớt, thều thào hơi gió:

- Tiểu oa nhi tên gì? Sao lại rơi xuống chốn này?

Thuần Vu Kỳ định ngồi lên để thilễ thì phát hiện huyệt đạo tứ chi đều bị phong tỏa. Chàng chỉ còn cách phát ra những âm thanh ngọng nghịu.

Lão nhân sửng sốt hỏi:

- Chẳng lẽ ngươi bị câm?

Thuần Vu Kỳ gật đầu xác nhận. Lão nhân bực bội chửi đổng:

- Con bà nó? Lão phu tưởng có được người bầu bạn, nào ngờ vớ ngay phải thằng câm. Thế có chán không cơ chứ.

Có lẽ lão bị tật ở cuống họng nên dù đang giận dữ mà cũng không thể nói lớn được. Lão ta gãi tai suy nghĩ rồi điểm nhanh lên người Thuần Vu Kỳ. Tứ chi của chàng đã có thể cử động được nhưng chân khí hoàn toàn bế tắc, thủ pháp chận huyệt điêu luyện và cực kỳ chính xác kia chứng tỏ bản lãnh vô công của lão nhân rất cao.

Thuần Vu Kỳ mừng vì thoát chết nên không để ý đến tiểu tiết, đứng lên vái tạ.

Chàng là học trò của Trương Tam Phong, chỉ quỳ lạy cha mẹ, chú bác, còn trong võ lâm không ai xứng đáng được nhận lễ quỳ bái của chàng.

Vái xong chàng ngồi xuống, dùng ngón tay viết lên nền động:

- Tại hạ là Thuần Vu Kỳ, hai mươi tuổi, quê đất Khai Phong, bị kẻ xấu ám hại, đẩy rơi xuống đây. Dám hỏi phương danh, quí tánh của tôn giá.

Lão nhân có vẻ không vui trước thái độ cao ngạo khách sáo của chàng, đáng lẽ kẻ chịu ơn kia phải dập đầu lạy tạ và xưng là vãn bối mới đúng lễ. Nhưng dung mạo và phong thái đôn hậu của Thuần Vu Kỳ lại trái ngược với lời viết khiến lão nhân phân vân, không phát tác ngay. Lão ta hắng giọng đáp:

- Lão phu họ Lam, tuổi đã gần tám chục. Mười năm trước, lão phu cũng bị một tên khốn kiếp xô xuống đây.

Lão bực dọc đổi giọng khó chịu:

- Ngày ấy lão phu không may mắn được lành lặn như ngươi, chỉ sống sót là nhờ vào lớp tuyết dầy dưới vực. Lão phu bị trọng thương, hôn mê hết một ngày và trong lúc ấy cơ thể bị chuột bọ cắn nát, chẳng còn ra người nữa. Muốn sống còn, lão phu đã đem tấm lưới kia để hứng lễ vật của những người đến cúng tế miếu Uyên Ương. Chính tấm lưới ấy đã cứu mạng ngươi đấy.

Thuần Vu Kỳ mỉm cười tự nhủ rằng mình quá may mắn khi đã đứng ngay sau chiếc miếu nhỏ, nơi người ta thường ném rượu thịt, hoa quả xuống. Lão họ Lam này sợ thực phẩm bị nát bét nên dựng dàn lưới ở chỗ ấy.

Chàng ra dấu hỏi:

- Sao tôn giá không tìm cách thoát khỏi chốn này?

Họ Lam thở dài vén bộ râu rậm và dài như mái tóc, để lộ đôi chân gầy khẳng khiu với khớp gối, khớp cổ chân sưng tấy vì phong thấp. Lão bùi ngùi nói:

- Quá trễ rồi. Lúc lão phu rơi xuống, yết hầu bị một cành cây đâm vào nên không thể hét lớn mà cầu cứu. Cuộc sống bữa đói bữa no, và không có lửa để sưởi ấm chốn ẩm thấp này đã hủy hoại cơ thể lão phu. Đáng sợ nhất là những mùa đông giá, ít người đến cúng kiếng, lão phu phải ăn cả chuột bọ rắn rít, thiếu muối trầm trọng. Trong vòng mười năm, do thiếu dụngcụ và sức khoẻ nên lão phu chỉ đào khoét được một con đường dài hai chục trượng, đâm chếch ra chân đồi Uyên Ương. Có lẽ mới chỉ được một phần ba đường.

Thuần Vu Kỳ mừng rỡ viết:

- Thanh trường kiếm của tại hạ rất tốt, chặt đá không gãy, có thể giúp chúng ta đào tiếp con đường ấy. Lam lão cứ yên tâm, nếu mỗi ngày đào hai trượng thì chỉ hai tháng là xong.

Họ Lam cười khẩy:

- Đáy vực ít dưỡng khí nên đường hầm hầu như không thở được. Lão phu bỏ cuộc cũng là vì lẽ ấy. Ngươi có giỏi thì cứ việc đào.

Chợt lão nghiêm giọng, ánh mắt đầy vẻ nghi hoặc:

- Lúc ngươi bất tỉnh, lão phu đã truyền chân khí vào kinh mạch, phát hiện công lực của ngươi rất thâm hậu. Vậy chẳng hay ngươi là bọc trò của vị cao nhân nào vậy?

Không ai tin rằng Trương tổ sư còn sống nên nếu nói ra thì mất công giải thích dài dòng, Thuần Vu Kỳ liền đáp khéo:

- Tại hạ là đệ tử tục gia phái Võ Đang Nãy giờ, chàng ngấm ngầm tìm cách giải tỏa những chỗ bế tắc trong kinh mạch mà không thành công, chứng tỏ lão họ Lam đã thi thố một công phu tà đạo. Sư phụ chàng từng bảo rằng phép giải huyệt của ông đứng đầu chính phái, chỉ chịu thua đường lối quỉ dị của vài lão ma đầu.

Lão nhân này lại chỉ xưng họ mà không xưng tên khiến Thuần Vu Kỳ liên tưởng đến một cao thủ hắc đạo có danh tính là Lam Thế Trạch, biệt hiệu Quỉ Ảnh Nhân Ma tuổi cũng gần bát thập, biệt tăm đã lâu.

Người thứ hai mang họ Lam là vị thần y Cửu Chuyển Đao Lam Thiên Ngũ. Nhưng lão này đã đi Nam Hải tìm kỳ trân hơn mười năm trước. Do chàng phỏng đoán như thế nên đã không nói thực lai lịch chỉ nói rằng mình mới xuất đạo đến Uyên Ương Giản xem cảnh sương ngũ sắc thì bị người đứng gần bên xô xuống, không rõ nguyên do. Từ lúc bị Bào Tử Mưu ám toán, Thuần Vu Kỳ bắt đầu thận trọng, không cởi mở tấm lòng như trước nữa.

Tuy đề phòng song chàng vẫn một lòng tôn kính Lam lão, chăm sóc hầu hạ lão chu đáo. Dàn lưới đan bằng dây leo đã được Thuần Vu Kỳ sửa chữa lại và chàng luôn dành phần ăn ngon lành cho họ Lam.

Có lần, khi thấy đồ cúng tế rơi xuống, chàng đã hét thật to để cầu cứu nhưng chỉ hoài công. Thanh quản bi tê liệt nên âm thanh phát ra không đủ lớn và chẳng hề giống tiếng người. Hoặc giả ai đó có nghe thấy thì cũng tưởng rằng tiếng gió hay tiếng gầm của thú dữ.

Thạch động của lão nhân họ Lam ở tận vách vực hướng Nam vì nơi dây sương mỏng, sáng sủa hơn khu vực khác. Lúc lên đồi, Thuần Vu Kỳ có mang theo tay nải nên đã lấy y phục của mình tặng cho lão nhân. Với chiếc hỏa tập, chàng đã nhóm được ngọn lửa ấm áp, sưởi ấm tấm thân còm cỏi của họ Lam. Nhờ lửa nên hai người mới dám án thịt lũ rắn rít, chuột bọ, cóc nhái cho đỡ đói vì chẳng phải ngày nào cũng có người đến cúng miếu Uyên Ương. Càng ở lâu chàng càng thương xót cảnh đọa đày suốt mười năm qua mà Lam lão đã chịu đựng.

Thuần Vu Kỳ đã thăm dò chiếc hang hẹp mà lão nhân họ Lam đã đào dở dang.

Nó quá nhỏ nên hoàn toàn thiếu dưỡng khí. Chàng không hề nản chí, dùng Tỏa Nhuệ kiếm phá cửa hang lớn gấp ba để đón thêm gió. Bên trong chàng cũng mở rộng thêm mỗi ngày một ít, chăm chỉ như loài kiến.

Thuần Vu Kỳ dùng toàn sức cơ bắp, không hề yêu cầu lão nhân khai tỏa cấm chế.

Tuy thân thể gầy gò nhưng Lam lão còn nguyên vẹn công lực chẳng yếu chút nào cả.

Song lão không chịu làm, cứ đứng lặng quan sát chàng trai trẻ hành động.

Suốt ba tháng trời, Thuần Vu Kỳ cần mẫn đào bới, tối về vui vẻ chuyện trò với Lam lão, ánh mắt cbẳng chút giận hờn.

Xế chiều ngày rằm tháng tám, ai đó ném xuống vực vài phong bánh trung thu và cả một bình rượu nhỏ. Dường như đã quen với việc này, Lam lão chực sẵn trên lưới để chụp lấy. May thay rượu trong bình vẫn còn hơn nửa.

Đêm ấy vầng trăng rằm tháng tám mờ mờ ẩn hiện trên trời cao, nhợt nhạt bởi sương mù. Lam lão rủ Thuần Vu Kỳ ra ngoài ăn bánh, uống rượu và thưởng trăng. Biết lão thèm rượu, chàng bảo rằng mình không biết uống. Họ Lam hớn hở nốc sạch và say vùi.

Nửa đêm lão giật mình tỉnh giấc, thấy thanh trường kiếm nằm bên cạnh còn Thuần Vu Kỳ thì ngủ say. Dưới ánh lửa lung linh của đống củi sắp tàn, gương mặt chàng câm hiền lành, nhân hậu biết bao.

Lam lão thở dài lẩm bẩm:

- Nếu ta không tin được y thì còn sống thêm làm gì nữa.

Sáng hôm sau khi Thuần Vu Kỳ hỏi mượn trường kiếm để đi đào hang thì Lam lão gạt đi:

- Ngươi không cần phải đào nữa. Ta đã có cách thoát khỏi nơi này. Tuy nhiên, trước khi ngươi lên mặt đất lão phu muốn truyền thụ hết võ công.

Thuần Vu Kỳ chau mày viết:

- Chẳng lẽ tôn giá không lên sao?

Họ Lam cười thảm:

- Tuổi thọ của lão phu sắp hết, dung mạo thì như ma quỉ, còn về với thế nhân làm gì nữa?

Thuần Vu Kỳ đã có chủ ý nên không tranh cãi, lặng lẽ vâng lời. Lam lão liền giải tỏa kinh mạch, khôi phục tu vi cho chàng trai trẻ rồi tiến hành dạy võ. Ông ta nghiêm nghị nói:

- Lão phu ít khi xuất thủ nên trên giang hồ không ai biết bản lãnh thực sự của lão phu. Ngươi là đệ tử Võ Đang, kiếm thuật chắc cùng khá nên lão phu chỉ dạy quyền trảo và thân pháp.

Với ánh mắt tự hào, Lam lão say sưa nói:

- Thế gian không có ma quỉ thì không ai thành phật cả. Chính tà tuy đối kháng nhưng cùng tồn tại, cần thiết cho nhau như âm và dương vậy. Thực ra thiện ác là do lòng người còn võ nghệ là phương tiện hành động. Người đời hẹp hòi nên xem công phu của các phái Tăng, Đạo là quang minh chính đại còn tuyệt học nào hơi hiểm độc, trí trá thì xếp vào Tà đạo. Họ quên rằng mục đích cuối cùng của võ nghệ là phòng thân và sát địch khi cần thiết, càng hiệu nghiệm càng tốt.

Lão dương đôi tay khẳng kheo lên ngắm nghía và mỉm cười:

- Trương tổ sư của phái Võ Đang lúc tròn bách tuế mới sáng tạo ra hai pho Thái Cực kiếm và Thái Cực quyền, nhưng lão phu mới ngũ thập đã nghĩ ra hai tuyệt học Long Trảo Truy Hồn và U Ảnh Ngự Phong thân pháp, lòng rất cao hứng.

Thấy họ Lam dám so sánh với Trương chân nhân, ánh mắt Thuần Vu Kỳ liền lộ vẻ hoài nghi. Lam lão nhận ra, cười nhạt:

- Ngươi cho rằng lão phu đại ngôn chứ gì. Hãy nghe cho rõ đây. Lão phu tinh thông y lý nên đã tìm ra bí quyết dồn chân khí tập trung vào hai bàn tay, biến nó thành sắt thép, không hề sợ gươm đao. Bởi vậy pho Long Trảo Truy Hồn mới đáng gọi là tuyệt học hãn thế. Còn U Ảnh Ngư Phong thân pháp ảo diệu đến mức xem thường cả Phách Không chưởng lực.

Nghe đến đây, Thuần Vu Kỳ vô cùng phấn khởi vì đây là điều chàng rất cần để đối phó với Phong Đô Đại Sĩ. Thuần Vu Kỳ chính sắc vái ba vái để tỏ ý khâm phục.

Kể từ hôm ấy, chàng ra sức khổ luyện hai công phu quỉ dị và phức tạp kia. Pho Long Trảo chi có ba mươi sáu chiêu nhưng mỗi chiêu gồm hàng trăm thế thức, hư nhiều hơn thực và tấn công vào cả những vị trí cấm kỵ ở bụng dưới, điều không hề có trong võ công chính phái. Vì hiểm độc như thế nên pho quyền trảo này giết người hiệu nghiệm hơn Thái Cực Quyền.

Riêng pho khinh công U Ảnh Ngự Phong thì quả là một thành tựul ớn lao trong võ học, Lam lão đã phối hợp Bát Quái với Ngũ Hành, đặt Hành Thổ tại Trung Cung nên bước chân cực kỳ lắc léo, ảo diệu.

Lão tử bảo rằng: "rỗng thì chứa được nhiều". Cho nên chàng trai có tâm hồn mộc mạc, trong sáng họThuần Vu kia đã mau chóng tiếp thu hết tuyệt nghệ của vị sư phụ bất đắc dĩ. Đến giữa tháng chạp thì Lam lão chẳng còn gì để dạy Thuần Vu Kỳ nữa.

Lão Vô cùng kinh ngạc, thở dài:

- Ngươi học quá dễ dàng khiến lão phu đâm ra nghi ngờ sự sáng tạo của mình.

Phải chăng chúng đã không lợi hại như lão phu từng nghĩ?

Thuần Vu Kỳ mỉm cười ra dấu rằng hai công phu kia rất tuyệt diệu. Vài ngày sau, Lam lão đưa cho chàng một viên dược hoàn màu xanh xám và bảo:

- Đây là Kháng Hàn Đan, ngươi hãy uống vào để chống lại cái lạnh cắt da của mùa đông. Tuyết sắp rơi dầy rồi đấy.

Thuần Vu Kỳ vui vẻ nuốt ngay và lập tức bị mê man. Khi chàng tỉnh dậy thì phát hiện Lam lão đang ngồi tĩnh tọa trên sàn hang. Tỏa Nhuệ kiếm tuốt trần nằm trước mặt.

Chàng nhận ra cổ mình quấn đầy vải còn gáy thì hơi đau, rất khó cử động. Lòng chàng đầy nghi hoặc, nhưng không dám lay gọi Lam lão, ngồi chờ đợi. Chàng nhẹ nhàng bước đến để nhặt trường kiếm, tra vào vỏ, thì nhìn thấy trên nền đá bằng phẳng có rất nhiều chữ viết bằng mũi kiếm.

Một linh cảm xấu làm chàng xao xuyến liền lắng nghe và quan sát thì mới biết Lam lão đã tuyệt khí. Chàng cẩn thận thăm mạch của lão và ứa nước mắt. Thuần Vu Kỳ cố bình tâm đọc di thư:

- Kỳ nhi. Lão phu chính là Cửu Chuyển Đao Lam Thiên Ngũ, trượng phu của Hồng Hoa Tiên Cơ đất An Dương. Hoàng Xuân Phụng trẻ hơn lão phu hai mươi tuổi, nhan sắc tuyệt trần và dâm đãng phi thường. Lão phu đã già, tinh ]ực suy yếu không thỏa mãn được dục vọng của Xuân Phụng, nên nàng ta có tình nhân. Trưởng tử của phu là Lam Thiên Hoạch, con đời vợ trước, đã nhiều lần cảnh báo mà lão phu ngu muội không tin.

Mười hai năm trước, lão phu đưa Hoàng Xuân Phụng đi Nam Hải tìm một loại kỳ trân tên gọi Thiên Xuân Đào. Với linh quả này, lão phu sẽ trẻ lại, cường tráng như bọn thanh niên, và sẽ cùng Tiên Cơ giữ mãi tuổi xuân.

Sau hơn một năm khổ công tìm kiếm khắp các hoang đảo ở biển Nam, lão phu đã may mắn thành công. Trong lúc vui mừng, lão phu đã lỡ miệng tiết lộ rằng ai thụ dụng hết trái đào tiên này sẽ có thêm bốn chục năm công lực.

Không ngờ câu nói ấy đã khiến Hoàng Xuân Phụng nổi lòng tham. Trên đường về An Dương đã rủ lão phu ghé thăm Uyên Ương Giản rồi xô xuống. Lão phu không chết, cố gượng sống vì căm thù, miệt mài đào hang để thoát ra, nhưng bệnh thấp khớp đã khiến lão phu phải bỏ dở công trình. Trong lúc tuyệt vọng, không ngờ Kỳ nhi lại xuất hiện và chứng tỏ được nhân phẩm trung hậu, thiện lương. Thế cho nên, lão phu đã truyền dạy võ công và chữa lành á tật cho Kỳ nhi. Chỉ một tháng nữa là thanh quản của người sẽ hồi phục có thể rú thật lớn để cầu cứu người bên trên. Rằm tháng giêng nào cũng có rất nhiều người đến cúng tế, cầu xin ở miếu Uyên Ương.

Lão phu chẳng còn mặt mũi nào để trở về quê nên quyết định tự sát. Uớc nguyện cuối cùng của lão phu là mong mỏi rằng Kỳ nhi sẽ thay ta giết chết con ác phụ Hoàng Xuân Phụng. Khi hạ thủ, Kỳ nhi nhớ mang chiếc mặt nạ mà năm xưa lão phu thường dùng mỗi lúc ra ngoài.

Lam Thiên Ngũ di bút.

Đọc đong di thư, Thuần Vu Kỳ cảm thương vô hạn, quì lạy di thể Cửu Chuyển Đao và khóc vùi.

Sau đó, Thuần Vu Kỳ bắt đầu tập phát âm và chờ đợi ngày rằm tháng giêng.

Giọng nói ngày càng rõ ràng nhưng mùa đông cũng càng khắc nghiệt. Tuyết rơi dầy đến nổi chẳng ai dám mò đến Uyên Ương miếu.

Thuần Vu Kỳ quyết định trèo lên bằng đôi bàn tay thép và thanh trường kiếm dẻo dai. Lỡ có rớt xuống thì cũng không sao vì lớp tuyết dưới đáy vực đã dầy hàng trượng, che lấp cả động đá và dàn lưới. Chàng bắt rắn, bắt chuột ăn thật no rồi hành động.

Nhờ công lực thâm hậu và đôi tay cứng rắn, mạnh mẽ, Thuần Vu Kỳ có thể bám chặt vào vách vực mà nhẫn nại tiến dần lên.

Khi mệt mỏi chàng cắm sâu Tỏa Nhuệ kiếm vào lớp đất đá rồi neo mình nghỉ ngơi. Nếu Cửu Chuyển Đao có được thanh kiếm tốt như chàng thì đã không phải giam mình dưới vực lâu như thế. Khi rơi xuống Uyên Ương Giản, lão chỉ có duy nhất một túi da đựng dao mổ và kim châm cứu.

Với nỗ lực phi thường, đến chiều thì Thuần Vu Kỳ vượt hết bức vách cao hơn bốn chục trượng, trở lại trần gian. Chàng vui mừng không xiết, cởi bỏ bộ y phục rách rưới, dơ bẩn, dùng tuyết tắm cho sạch rồi thay quần áo mới. Sau lần chết hụt, Thuần Vu Kỳ rất thận trọng, mang tấm mặt nạ mà Lam Thiên Ngũ để lại rồi mới xuống đồi.

Trong dung mạo một gã tứ tuần anh tuấn, tối hôm ấy, Thuần Vu Kỳ vào thành Tân Hương nghỉ trọ. Chàng còn giữ đầy đủ những vật thiết thân như tiền bạc, xấp thẻ Đinh của Ngạo Thế Thần Ông nên có thể ung dung dùng tên giả là Vũ Khinh Hồng.

Sáng hôm sau, nhằm ngày mười sáu tháng giêng, Thuần Vu Kỳ trả phòng, ra ngoài mua tuấn mã. Lúc đi ngang Trương Gia phạn điếm, nơi có bán những món điểm tâm, thấy khá nhiều khách giang hồ lưng mang đao kiếm đang nói chuyện râm ran, Thuần Vu Kỳ liền ghé vào để nghe ngóng. Chàng ở dưới vực tám tháng trời, có lẽ cục diện giang hồ đã có nhiều thay đổi.

Cửu Chuyển Đao Lam Thiên Ngũ là bậc đại thần y giỏi nghề giải phẫu nên chiếc mặt nạ của lão làm ra cực kỳ tinh xảo, rất khó bị phát hiện. Họ Lam mặc cảm già nua xấu xí hơn Hồng Hoa Tiên Cơ nên khi cùng người đẹp ra ngoài thường mang dung mạo giả rất tuấn tú.

Thuần Vu Kỳ vừa ăn sáng vừa lắng nghe, thu nhận được những thông tin bổ ích.

Đó là việc Thuần Vu gia trang treo giải thưởng năm ngàn lượng vàng cho bất cứ ai tìm được Thuần Vu công tử, dù sống hay chết.

Tin kế tiếp là sự xuất hiện của hai bang hội mới. Một là Thần Kiếm bang, Bang chủ là Mộ Dung Thịnh ở núi Vân Sơn cách Nam Dương hai chục dặm về hướng Bắc.

Phái thứ hai là Hồng Hoa cung ở chân núi Phụng Sơn, phía Nam thành An Dương, do Hồng Hoa Tiên Cơ làm Cung chủ.

Đáng ngại nhất là việc Trung Nghĩa bang đã không chế dược ba phái Thiếu Lâm, Hoa Sơn, Võ Đang. Phong Đô Đại Sĩ dùng tà pháp huy động âm binh, nửa đêm làm cho cát bay đá chạy mịt mù. Rồi họ Liêu nhân lúc hỗn loạn ấy, vào tận trọng địa đối phương mà bắt sống chưởng môn, ép uống chất kỳ độc mạn tính. Liêu Vô Chỉ cũng đã trút một trận mưa đá khủng khiếp xuống Thuần Vu gia trang ở Khai Phong nhưng may mà Huyền Cơ thư sinh đoán trước được, sớm đưa cả nhà đào tẩu. Hiện họ ở đâu thì không ai rõ.

Thuần Vu Kỳ thở phào khi biết người thân đã thoát nạn. Chàng tin rằng gia đình mình sẽ bố trí người ở lại Khai Phong nên lên đường đi ngay. Trưa hôm sau, Thuần Vu Kỳ đã có mặt trong thành, vào lữ điếm gởi ngựa và hành lý rồi đi dạo qua nhà cũ xem sao.

Các bức tường vẫn đứng vững nhưng hầu hết mái ngói trong trang bị hư hại nặng nề, chứng tỏ trình độ pháp thuật cao cường của Phong Đô Đại Sĩ.

Trước cửa trang, trong tòa tiểu đình, có bốn gã quân binh đang đánh cờ. Thuần Vu Kỳ hiểu rằng có hỏi thăm cũng vô ích nên vòng ra phía sau, lựa lúc không ai chú ý, vượt tường mà vào.

Trận kỳ môn này đã mất tác dụng vì cây cối bị trận mưa đá hủi hoại, trông rất tang thương. Thuần Vu Kỳ vượt qua dải cây phòng vệ, tiến vào khu hậu viện, tìm đến phòng của cha mẹ.

Vật dụng trong nhà vẫn còn nguyên song những đồ quí giá đã biến mất. Chàng vung kiếm chặt đứt ổ khóa ngọa thất, vào lục soát rất kỹ nhưng chẳng thấy thư từ gì.

Sực nhớ đến mật thất dưới sàn phòng, Thuần Vu Kỳ mở tủ áo của mẹ khởi động cơ quan để mở cửa hầm mà đi xuống.

Chàng bật hỏa tập đốt liền hai cây đèn tọa đăng để dễ bề quan sát. Thì ra vàng ngọc châu báu đều được mang đi hết, chỉ còn trơ lại những rương gỗ trống không.

Nhưng trên tường có ghi lại bút tích của mẹ chàng. Tiết Như Xuân viết rằng:

- Kỳ nhi. Nếu có về thì hãy đi thăm mộ Bích Ngọc Miêu.

Thuần Vu Kỳ hiểu ngay rằng mẹ mình để lại thư trong hòn giả sơn, nơi chàng từng giấu con mèo bằng ngọc xanh. Vị trí này chỉ có chàng và thân mẫu biết mà thôi.

Thuần Vu Kỳ tức tốc trở lên mặt đất, ra hoa viên phía sau. Trong hốc đá kín đáo nọ, chàng tìm thấy một mảnh hoa tiên phía dưới con mèo, nội dung rất đơn giản:

"Con hãy tìm chủ cũ của thanh Tỏa Nhuệ kiếm".

May mà Vệ Tích Cơ đã kể lại việc họ Tôn tặng kiếm và từng đưa chàng đi ngang qua căn nhà mới mà Thuần Vu gia trang đã xây cho lão.

Thuần Vu Kỳ phấn khởi vượt tường, về lấy ngựa, đi lên phía cửa Bắc Khai Phong, tìm đến khu dân cư ở góc Đông Bắc. Đây là một xóm nghèo đông đúc, toàn thợ thủ công và người bán hàng rong. Chính vì vậy mà căn nhà gạch lợp ngói của lão thợ rèn họ Tôn trông có vẻ nổi bật hơn cả. Cạnh căn nhà ba gian khang trang ấy là một lò rèn ám khói, ngổn ngang sắt thép. Ngoài nghề rèn dao, búa, nông cụ, lão Tôn Hằng còn làm cả việc đóng móng ngựa nữa.

Mới quá giữa tháng giêng, đang là thời điểm nông nhàn nên lò rèn vắng khách.

Vả lại trước tết Nguyên Đán bách tính đã sắm sửa đầy đủ, sau tết không mua thêm. Và cũng có thể là họ đã tiêu sạch tiền bạc trong dịp tết.

Tuyết vẫn còn rơi nhiều, trời lạnh căm căm, đốt lò để không thì uổng phí nên lão Tôn Hằng liền nghỉ cho khỏe thân già, cùng con trai lớn nhâm nhi vài chén rượu.

Nhà lão xoay về hướng Nam, không sợ tuyết bay vào, có thể mở cửa sổ để ngắm cảnh. Bàn rượu kê ngay cửa sổ nên Tôn lão nhận thấy người kỵ sĩ mặc áo lông cừu trắng. Lão cau mày bảo con trai:

- Lực nhi. Con mau ra nói với khách rằng chúng ta chưa khai trương, phiền ông ta đi chỗ khác mà đóng móng.

Tôn Lực tuổi độ hai mươi sáu, thân thể lực lưỡng nhờ chuyên quai búa tạ. Gã đứng lên mở hé cửa chính, lập lại lời cha nói với cái giọng ồm ồm. Song người kỵ sĩ kia vẫn thản nhiên buộc dây cương vào cột chống mái hiên rồi bước đến cửa sổ mỉm cười và ra dấu với Tôn Hằng.

Lão thợ rèn già giật bắn mình, trợn mắt ngơ ngác khi thấy hán tử tứ tuần kia vuốt mặt, biến thành một chàng trai trẻ trung. Song dường như đã được dặn dò cẩn thận nên Tôn lão hỏi:

- Phải chăng công tử muốn sửa kiếm?

Thuần Vu Kỳ hiểu ý, đút thanh Tỏa Nhuệ qua song cửa. Tôn lão rút ra xem xét và mừng rỡ nó:

- Cảm tạ hoàng thiên đã phù hộ cho công tử lành lặn trở về, mời công tử vào trong.

Thuần Vu Kỳ vào nhà, nửa khắc sau trở ra không lấy ngựa mà đi bộ, quay lại đường phố chính Bắc Nam. Lúc còn cách cửa thành hướng Nam hơn dặm chàng rẻ phải, đi thêm một quãng, dừng chân trước một tòa trang, viện nho nhỏ, cũ kỹ Cơ ngơi này cất theo lối Tam Hợp Thiện, có sân gạch rộng ở giữa, cửa mở về hướng Nam. Cửa trang đóng kín nhưng tường vây chỉ cao độ một trượng, chẳng thấm thía gì với bọn đạo tặc.

Thuần Vu Kỳ nóng ruột gặp lại người thân nên chẳng gỏ cửa, tung mình nhảy qua tường. Chân chàng vừa chạm đất thì có hai bóng trắng ập đến tấn công, đường kiếm cực kỳ mãnh liệt. Nhận ra Dương Hổ và Hách Nham, Thuần Vu Kỳ vô cùng vui sướng, chợt nảy ra ý định chọc ghẹo họ.

Chàng không chống đỡ mà thi triển thân pháp U Ảnh Ngự Phong, đảo bộ tránh khỏi hai lưới kiếm của bọn thủ hạ. Dương Hổ giận dữ rít lên nhưng không lớn lắm:

- Ngươi là ai sao lại đột nhập vào đây?

Thuần Vu Kỳ đang mang mặt nạ nên họ Dương chẳng thể nhận ra. Chàng mỉm cười quay đầu lướt nhanh vào trong, hướng đến dãy nhà phía Bắc. Nhưng từ hai dãy Đông Tây đã có hàng chục kiếm thủ mặc áo lông cừu lao ra chận lại. Họ lặng lẽ tấn công chứ không quát tháo, dường như chẳng muốn hàng xóm nghe thấy.

Thuần Vu Kỳ cũng muốn thử nghiệm hai pho võ công mới học nên dồn chân khí vào song thủ, ngang nhiên đánh bạt những thanh gươm kia và chân vẫn lướt nhanh.

Đôi bàn tay thép của chàng không hề bị thương nhưng khá đau đớn vì công lực chưa đủ hỏa hầu. Tuy nhiên như thế cũng đủ dọa khiếp bọn Dương Hổ, Hách Nham. Họ điên cuồng lăn xả vào chàng bất kể tử sinh, quyết giết cho được kẻ xâm nhập.

Thuần Vu Kỳ không ngờ chuyện đùa hóa thật, vội dồn toàn lực phá vây lao nhanh lên hành lang. Cửa phòng ngay chỗ chàng đến bỗng bật mở và Trại Ngu Cơ Tiết Mạn Thụy xuất hiện, vung kiếm chém liền.

Thuần Vu Kỳ mừng rỡ, vươn tay chụp lấy lưỡi kiếm rồi điểm huyệt, bắt nàng làm con tin. Bọn Dương Hổ chết điếng người, đứng nhìn với ánh mắt căm hờn. Tiết Mạn Thụy thì run rẩy nói:

- Trong phòng chỉ có ba lão nhân yếu đuối, xin các hạ đừng hại họ. Các hạ muốn bao nhiêu vàng cũng có.

Thuần Vu Kỳ mỉm cười cúi xuống hôn lên má nàng khiến nữ nhân sợ đến nhũn người. Dương Hổ chưa kịp chửi mắng thì tên dâm tặc kia đã vuốt mặt, để lộ dung mạo thực. Chàng còn mỉm cười và dùng tay hữu ra dấu chào mọi người. Mười gã kiếm thủ hân hoan rú lên:

- Công tử.

Hách Nham không thể dùng ngôn từ để biểu lộ nổi vui mừng nên chạy đến, quì xuống ôm chủ nhân mà khóc ròng.

Được Thuần Vu Kỳ giải huyệt, Trại Ngu Cơ ôm chặt cổ chàng và cũng khóc như mưa. Bọn Dương Hổ thì nhảy nhót, như trẻ con xúm lại quanh kẻ từ cõi chết trở về.

Thuần Vu Kỳ vỗ vai và xiết chặt tay từng người rồi cùng Trại Ngu Cơ đi vào trong phòng.

Tiết Mạn Thụy khởi động cơ quan và sàn nhà sụp xuống một ô vuông.

Tiết Như Xuân đang bệnh hoạn, có thể chết vì quá vui mừng, do vậy,Trại Ngu Cơ xuống trước, lựa lời mà thông báo dần.

Mật thất khá rộng rãi và đầy đủ tiện nghi được soi sáng bằng những ngọn nến vì khói của đèn dầu mỏ rất khó ngửi và độc địa.

Vợ chồng Thuần Vu Hồng và Tiết phu nhân, mẹ của Mạn Thuỵ đang ngồi trò chuyện cạnh bàn, sắc diện đầy vẻ lo âu. Lúc nãy, khi phát hiện có kẻ xâm nhập, ba người yếu đuối này đã xuống ẩn mình nơi đây.

Thuần Vu Hồng lo lắng hỏi:

- Thụy nhi. Đã bắt được gã ấy chưa?

Trại Ngu Cơ mỉm cười:

- Bẩm lão gia. Người ấy không phải là kẻ thù mà đến đây để báo tin về Kỳ ca.

Tiết Như Xuân đang ủ rũ, giật mình run giọng hỏi ngay:

- Kỳ nhi còn sống chứ?

Tiết Mạn Thụy gật đầu:

- Bẩm phải. Y đòi tăng tiền thưởng lên vạn lượng rồi mới dẫn chúng ta đi.

Như Xuân nóng nãy xua tay:

- Vạn lượng cũng chẳng sao. Mau bảo gã ấy xuống đây.

Thuần Vu Hồng là người cơ trí, phát hiện ngay chuyện lạ. Lão cau này hỏi:

- Thụy nhi. Vì sao gã ấy lại biết chúng ta ẩn náu ở đây?

Như Xuân tỉnh ngộ:

- Đúng vậy. Chỉ mình Kỳ nhi mới biết lối vào mật thất cũng như hốc đá giấu Bích Ngọc Miêu ở Thuần Vu gia trang, từ đó y mới tìm được chúng ta. Người ngoài tuyệt nhiên không thể hiểu được.

Mạn Thụy mỉm cười:

- Bẩm Nãi Nương. Người ấy có dẫn Kỳ ca theo nhưng không biết là thật hay giả.

Sự nghi hoặc đã kìm hãm vẻ vui mừng, Tiết Như Xuân thận trọng nói:

- Để ta kiểm tra sẽ rõ thực hư. Con mau đưa họ xuống đây.

Biết rằng đã thành công trong việc hạn chế sự bất ngờ có hại cho mẹ chồng, Mạn Thụy trở lên dẫn trượng phu xuống. Thuần Vu Kỳ quỳ lạy song thân và Cửu mẫu nhưng không dám nói thành lời vì sẽ gây nghi ngờ.

Ba lão nhân chăm chú quan sát, không vội mừng ngay. Tiết Như Xuân đã bị vụ án hóa thân dọa khiếp một lần nên giờ đây rất cảnh giác. Bà hờ hững bảo:

- Kỳ nhi hãy đến với ta?

Thuần Vu Kỳ liền lết đến, úp mặt vào gối bà như ngày xưa rồi ngẩng lên mỉm cười, dùng tay ra dấu để chuyện trò. Ánh mắt, nụ cười kia dã quá quen thuộc nên Như Xuân dần dần lấy lại niềm tin, vuốt ve gương mặt con trai.

Thuần Vu Hồng cười khổ:

- Kỳ nhi hãy ngồi cạnh ta, viết chữ kể lại mọi tao ngộ xem sao.

Trong hầm có cả văn phòng tứ bảo nên Thuần Vu Hồng nhận ra ngay nét chữ cứng cáp, vụng về của con trai. Ông ôm chàng cười khanh khách, nước mắt dàn dụa.

Hai nữ nhân kia cũng ôm lấy Thuần Vu Kỳ mà khóc nức nỡ.

Đến tận tối hôm ấy, khi mọi nghi ngờ đã tan biến sạch, chàng mới dám tiết lộ việc mình được Cửu Chuyển Đao Lam Thiên Ngũ chữa lành á tật. Niềm tin vui xum họp liền được nhân đôi.

Vì những người khác đều đã đi theo Huyền Cơ thư sinh để lập căn cứ chống lại Trung Nghĩa bang nên Thuần Vu Kỳ quyết định rời Khai Phong để hỗ trợ họ. Tiết Như Xuân không chịu xa con quá sớm nên chàng phải ở lại đấy mấy ngày.

Ngay đêm đầu tiên, Trại Ngu Cơ đã tìm đến phòng chồng chưa cưới, e lệ nói lí nhí:

- Ba vị nhân gia ra lệnh cho thiếp đến hầu hạ chàng.

Thì ra Thuần Vu Hồng sợ tuyệt tự nên cố tranh thủ tìm cháu nối dõi. Tám tháng qua vợ chồng ông sống như đã chết và hối hận vì không sớm cử hành hôn lễ cho con trai.

Thuần Vu Kỳ hân hoan đón nhận thân hình ngà ngọc của Trại Ngu Cơ. Mạn Thụy dịu dàng đằm thắm nên run rẩy, thẹn thùng khi dâng hiến. Nàng không nóng bỏng như Vệ Tích Cơ nhưng đôi mắt huyền sầu mộng kia chất ngất nỗi đam mê. Sau mười đêm ân ái mặn nồng, sáng hai mươi bảy, Mạn Thụy sụt sùi tiễn trượng phu lên đường. Tiết Như Xuân và chị dâu cũng khóc, luôn miệng dặn dò bảo trọng đừng để trẻ thơ ra đời mà không có cha. Thì ra Mạn Thụy đã cấn thai.

Năm ngày sau, Thuần Vu Kỳ đến Lạc Dương, bước vào khách sạn đồ sộ trên đường Bạch Mã. Tấm bảng chiêu bài của công trình này khắc lõm mấy chữ: Lạc Thành đại lữ điếm.

Tên tiểu nhị mập mạp mắt hí, tuổi trung niên kia chính là Hoàng Bưu, tam ca của Lang Nha mỹ nhân Sầm Tú Linh. Gã cười hì hì hỏi:

- Phải chăng đại hiệp định mướn phòng?

Thuần Vu Kỳ lắc đầu đáp theo mật khẩu mà Trại Ngu Cơ đã dạy:

- Không phải. Tại hạ muốn mua cả cái lữ điếm này.

Ánh mắt Hoàng Bưu sáng rựclên, gã nghiêm nghị bảo:

- Ai giới thiệu các hạ đến mua?

Thuần Vu Kỳ cười đáp:

- Tại hạ là Vũ Khinh Hồng, quê đất Quảng Đông, bạn cũ của Dương Hổ. Mấy ngày trước, tại hạ ghé Khai Phong chơi, tình cờ gặp gã ngoài phố. Họ Dương liền giới thiệu tại hạ đến đây gia nhập liên minh.

Hoàng Bưu gật gù:

- Thôi được. Mời các hạ vào trong.

Gã bảo tên tiểu nhị thứ hai dẫn ngựa xuống chuồng rồi đưa khách vào trong. Gã dẫn Thuần Vu Kỳ vào một phòng khách nhỏ ở tầng trệt, và lát sau, có một nữ nhân bước vào, tay bưng khay trà. Tuy đã hóa trang cho già đi và mặc áo rộng để che giấu thân hình nẩy nở, song Vệ Tích Cơ cũng không qua được mắt chồng mình.

Thuần Vu Kỳ xúc động đến mức định tháo mặt nạ để được ôm lấy người vợ yêu dấu. Nhưng từ phía trong vọng ra giọng cười quen quen của Đồng Quan Thần Phiến Đào Tử Mưu khiến chàng chột dạ. Phải chăng họ Đào trà trộn vào đây để làm nội gián cho Xảo Quá Thiên?

Vệ Tích Cơ tươi cười rót trà mời khách. Thuần Vu Kỳ uống ngay, không để ý rằng trà rất nguội.

Tích Cơ bỗng cười nhạt:

- Túc hạ đã uống Đoạn Trường Tán, hãy mau thành thực khai báo mục đích của mình.

Thuần Vu Kỳ mỉm cười, đưa tách ra:

- Xin cô nương cho tại hạ xin thêm?

Tích Cơ ngỡ ngàng rót cho chàng, mắt đầy vẻ cảnh giác. Thuần Vu Kỳ uống cạn chén trà thứ hai rồi nói:

- Tại hạ đến đây để báo cho chư vị biết rằng Đồng Quan Thần Phiến Dào Tử Mưu là nội gián của Trung Nghĩa bang.

Tích Cơ cau mày tư lự:

- Lẽ nào lại như thế. Đào Tử Mưu tài trí hơn người, nhân phẩm đường chính, không thể là thủ hạ của Trung Nghĩa bang được.

Thuần Vu Kỳ thở dài:

- Họ Đào là đại hiếu tử, nên khi bị Xảo Quá Thiên bắt cóc mẹ hiền mà uy hiếp thì Tử Mưu đã phải bán mình cho quỷ. Chính y đã giả vờ kết bạn với Thuần Vu công tử và xô chàng ta xuống vực thẳrn Uyên Ương Giản đấy.

Tích Cơ sửng sốt, bối rối hỏi:

- Nhưng sao túc hạ lại biết được điều này? Không lẽ thuyết phu bị họ Đào hại chết rồi sao?

Bỗng ngoài hành lang có tiếng chân đi ra và Đào Tử Mưu lên tiếng chào từ biệt.

Thuần Vu Kỳ vội nói:

- Tuyệt đối không được để y rời khỏi chốn này.

Tích Cơ cười mát:

- Họ Đào mới đến sáng nay, đi theo Võ Đang ngũ tú. Y bị thử thách bằng độc trùng, quá Ngọ sẽ đau dữ dội phải quay lại đây thôi. Túc hạ hãy trả lời tiếp đi.

Thuần Vu Kỳ không trả lời mà tủm tỉm trêu chọc:

- Nghe nói chính thất của Thuần Vu công tử nhan sắc phi phàm, thân hình gợi cảm tựa Thần Nữ Vu Sơn, sao nàng lại hóa trang cho xấu đi làm gì?

Tích Cơ vừa thẹn vừa kinh hãi thì gã trai già anh tuấn kia đã nói tiếp:

- Trên người nàng có chín nốt ruồi son, bốn ở tứ chi, hai trên ngực, ba trên mông có đúng thế không?

Bí mật này chỉ có hai người biết là Độc Cơ và Thuần Vu Kỳ. Nay gã Vũ Khinh Hồng nói ra vanh vách khiến Tích Cơ choáng váng. Nàng chưa kịp phản ứng thì Thuần Vu Kỳ đã đứng lên và bảo:

- Nàng mau đưa ta vào gặp các trưởng bối?

Tích Cơ bàng hoàng bước đến, nắm lấy bàn tay chàng rồi thảng thốt gọi:

- Tướng công.

Và nàng cào nhẹ lên má chàng, gỡ tấm mặt nạ ra để được yên tâm. Gương mặt này nàng đã nhung nhớ, tiếc thương suốt mấy tháng qua.

Tiếng khóc hân hoan của Tích Cơ lọt ra ngoài và Hoàng Bưu tông cửa chạy vào.

Gã sững sờ kêu lên:

- Đại công tử.

Nhưng gã lại hoài nghi ngay:

- Không thể được. Xin đại phu nhân đề phòng. Người này không bị câm.

Người trong hậu sảnh đã chạy ùa vào phòng, có cả Lang Nha mỹ mhân Sầm Tú Linh.

Tích Cơ bị câu nhắc nhở của Hoàng Bưu làm cho phân vâng lui lại vài bước.

Thuần Vu Kỳ chẳng níu kéo, cười với Sầm Tú Linh:

- Sao nương tử lại có mặt ở đây?

Vừa lúc Tiết Cao Vân và vợ chồng Tử Bất Y vào đến. Thuần Vu Ky vội khấu bái:

- Hài nhi ra mắt nhạc phụ, nhạc mẫu và Cửu phụ.

Ngay xẩm tối hôm ấy, niềm vui xum họp chưa tan thì Huyền Cơ thư sinh ra lệnh dọn sang ở nơi khác vì Đồng Quan Thần Phiến đã không quay lại.

Thỏ khôn cỏ đến chín hang nên chỉ ba khắc sau là cả bọn đã an vị trong một tòa trang viên lớn, cách chỗ cũ vài chục trượng. Tiệc mừng vui như tết, chỉ toàn những người thân. Đại quân của liên minh đóng ở căn cứ ngoại thành, khách điếm chỉ là nơi chiêu mộ. Sau khi nghe hết câu chuyện Uyên Ương Gản, cử tọa vô cùng thương xót cho Cửu Chuyển Đao, hết lời chửi rủa Đào Tử Mưu cũng như Hồng Hoa Tiên Cơ Hoàng Xuân Phụng. Tử Bất Y Vệ Túc Đạo chửi hăng nhất vì lão cũng lâm và cảnh chồng già vợ trẻ.

Thuần Vu Kỳ bỗng hỏi:

- Chẳng hay chư vị có tin tức gì về Tiệp muội hay không?

Không gian chợt chùng xuống, im lặng khác thường khiến Thuần Vu Kỳ lo sợ hỏi gặng:

- Phải chăng Tiệp muội đã gặp chuyện chẳng lành?

Tiết Cao Vân thở dài não nuột:

- Con nha đầu ấy vẫn bình an nhưng sắp trở thành vợ của Mộ Dung Thịnh, Bang chủ Thần Kiếm bang. Hôn lễ sẽ cử hành vào ngày hai mươi sáu tháng ba tới.

Tin như sét đánh khiến Thuần Vu Kỳ không thốt nên lời. Chàng tự cho rằng mình có lỗi nên không hề oán trách Đan Nhược tiên tử, chàng bâng khuâng nói:

- Mộ Dung Thịnh là bậc anh hùng tài mạo song toàn, hy vọng Tiệp muội sẽ có hạnh phúc.

Độc Cơ Lạc Anh Châu tức tối nói:

- Con bé ấy trách ngươi đa thê, giận dỗi bỏ đi. Nay lại chịu làm lẽ Mộ Dung Thịnh thì hóa ra kẻ hai lời chứ chẳng hay ho gì?

Huyền Cơ thư sinh cười khổ:

- Tiệp nhi không phải là kẻ hai lời vì đã bắt Mộ Dung Thịnh đuổi chính thất và hai con về quê. Đồ đệ của lão phu là Dịch Hoài Giang hiện đang đầu quân cho Thần Kiếm bang để làm nội gián, đã báo tin ấy.

Tử Bất Y giận dữ thóa mạ:

- Không ngờ con bé ấy lại ác độc như thế và gã Mộ Dung Thịnh kia là kẻ chẳng ra gì. Như lão phu đây dẫu có nạp thêm hàng tá tỳ thiếp cũng chẳng bao giờ phụ rẩy vợ cả.

Tích Cơ cười khúc khích:

- Phụ thân muốn đêm nay ngủ một mình hay sao mà lại nói thế?

Vệ Túc Đạo sợ xanh mặt cười giả lả phân bua:

- Lão phu nói ví dụ thôi mà. Đời nào lão phu lại nạp thiếp? Bà đừng giận lão phu nhé.

Nét mặt và thái độ bối rối, sợ sệt eủa vị thần y chết mới không trị được này đã làm cả nhà cười vang, vơi bớt nỗi buồn về đạo đức của Đan Nhược tiên tử.

Đêm ấy, Thuần Vu Kỳ vào phòng Vệ Tích Cơ thì bị nàng đẩy sang phòng Lang Nha mỹ mhân, cũn gvới mục đích là tìm người thừa tự. Nghe nói Tiết Mạn Thụy đã cấn thai, Sầm Tú Linh dù hổ thẹn cũng ráng theo kịp chị em.

Cuối canh ba Thuần Vu Kỳ mới quay lại phòng Vệ Tích Cơ, ôm lấy thân hình kỳ diệu của nàng mà hít thở mùi da thịt quen thuộc. Chàn gyêu xiết bao người đàn bà chung thủy và độ lượng này. Lúc vắng chồng Tích Cơ luôn ăn mặc kín đáo, rộng rãi che phủ những đường cong tuyệt mỹ, mặt hoa chẳng hề son phấn, trâm lược biếng cài để có thể dành riêng nhan sắc ấy cho trượng phu. Giờ đây hội ngộ Tích Cơ nồng nàn dâng tặng Thuần Vu Kỳ xác thân ngọt lịm và một tình yêu say đắm.

Hôm rằm tháng giêng, Huyền Cơ thư sinh đã cùng vợ chồng Tử Bất Y giả làm khách thập phương lên chùa Thiếu Lâm dâng hương. Vào dịp tết Thượng Nguyên, ngôi chùa Thiền Tông này được rất nhiều tín đồ đến lễ bái, đông đến mấy ngàn nên dù Phong Đô Đại Sĩ có cho người giám sát cũng không xuể.

Ba người lẻn vào hậu viện tìm cách giải độc cho phương trượng ĐịnhTâm. Độc Cơ Lạc Anh Châu phát giác ra chất độc kia là của mình. Vậy là chàng rể hụt Đào Tam Mộc đang có mặt trong Trung Nghĩa bang. Tất nhiên Lạc Anh Châu giải trừ dễ dàng, giải thoát phái Thiết Lâm khỏi sự khống chế của Phong Đô Đại Sĩ.

Sau đó, thuốc giải được gởi đến núi Võ Đang và núi Hoa Sơn kèm theo kế hoạch phân công. Do vậy đến đầu canh hai đêm mùng tám tháng hai thì lực lượng Bạch Đạo đã phục kín chân núi Tuấn Cực chờ hiệu lệnh là xông lên.

Tuy nhiên, để gây hỗn loạn hậu phương kẻ địch, một cao thủ đã được lệnh xâm nhập trước. Người này chính là gã Truy Hồn kiếm khách Vũ Khinh Hồng, một cao thủ lạ mặt.

Việc tái sinh của Thuần Vu Kỳ đã được giữ bí mật, trừ người thân ra, không ai trong liên minh Bạch đạo được biết cả.

Thuần Vu Kỳ tiến vào bằng đường sườn núi hướng tây, nơi mà ánh trăng thượng huyền không soi đến được.

Với thân pháp U Ảnh Ngự Phong ảo diệu tuyệt luân và nhãn lực tinh tường như loài chim ăn đêm, chàng dễ dàng phát hiện và vượt qua những chốt canh trên đường đi.

Thuần Vu Kỳ áp sát chân tường của Tổng đàn Trung Nghĩa bang vận công nghe ngóng. Không thấy có ai ở gần mé tường trong, chàng tung mình nhảy lên bám lấy đỉnh, ló đầu quan sát.

Giờ mới gần giữa canh hai nên sào huyệt này khá huyên náo, kẻ qua người lại tấp nập. Những toán tuần tra cũng đi rảo liên tục nhưng ra chiều uể oải lơ đãng. Từ ngày Trung Nghĩa bang nắm cổ được ba phái Bạch đạo, cả Bang chủ lẫn bang chúng đều đắc ý, cho rằng chẳng còn ai dám chống lại mình.

Tổng đàn Trung Nghĩa bang không có đàn dơi độc canh gác mà thay vào đó là lũ chó đông đến mấy chục con. Tuy nhiên Thuần Vu Kỳ được bà mẹ vợ xinh đẹp ban cho một loại thuốc nước rất màu nhiệm để rắc lên y phục. Bọn chó đánh hơi thấy là lảng đi ngay, không dám sủa. Nhờ vậy, khách dạ hành ung dung tiến thẳng xuống khu nhà bếp, nhà kho.

Dẫu chính hay tà thì cách xây dựng, bố trí nhà cửa cũng cùng chung một qui cách, chẳng ai để ý sửa đổi làm gì. Mà Thuần Vu Kỳ từng phục vụ trong bếp nên biết rõ đâu là nơi chứa dầu mỡ.

Vào thời nhà Minh việc khai thác dầu mỏ thiên nhiên đã phát triển nên thứ nước đen sì hôi hám này được sử dụng song song với dầu thực vật và mỡ động vật trong việc thắp sáng.

Đầu mỡ dễ bắt lửa nên các nhà giàu thường cất trong kho cách nhà bếp một quãng, chung với than đá, ngũ cốc. Với bàn tay cứng rắn, mạnh mẽ Thuần Vu Kỳ nhẹ nhàng bẻ gãy ổ khóa cửa kho, lẻn vào trong. Ngày xưa, chất lỏng thường được chứa trong thùng bằng gỗ ghép, dầu mỏ thấm qua gỗ tỏa mùi hăng hắc rất dễ nhận ra.

Thuần Vu Kỳ lấy trong ngực áo ra một đoạn hương ngắn lớn bằng ngón tay và một nắm bùi nhùi. Chàng bật hỏa tập đốt hương rồi lấy bùi nhùi quấn quanh đoạn dưới và đặt hai thứ ấy lên nốc thùng dầu ẩm ướt. Nửa khắc sau lửa sẽ lan đến bùi nhùi, đốt cháy nó và thùng dầu. Xong xuôi, Thuần Vu Kỳ thoát ra, khép cửa lại như cũ, len lỏi lên khu nhà hậu viện. Sau lần bị trời đánh, Tổng đàn này đã được sửa sang lại đẹp hơn xưa.

Lúc vượt qua vườn hoa lớn phía sau, Thuần Vu Kỳ chợt phát hiện một gã bang chúng đang thập thò trong bụi hoa phù dung rậm rạp, lú ra chui vào, ngóng cổ nhìn quanh như đang chờ đợi ai đấy. Phỏng đoán gã này đang hẹn hò tình tứ với một ả nữ tỳ, việc thường xảy ra trong các nhà đại phú, đông đảo gia nhân.

Chàng mỉm cười nghĩ đến gã hói Ngô Phương và Tiều Mai nhưng Tiểu Mai lại gợi nhớ Thuần Vu Tiệp khiến tim chàng đau nhói. Dẫu sao thì Đan Nhược tiên tử cũng là nữ nhân dầu tiên trong cuộc đời chàng.

Thuần Vu Kỳ cố xua đi nỗi buồn, lướt đến điểm huyệt gã si tình, lột lấy bộ y phục màu xanh nhạt mặc bên ngoài bộ Hắc y. Chàng tịch thu cả tấm khăn quấn trên đầu gã mà sử dụng. Sau đó, Thuần Vu Kỳ mang cái thân thể bất động kia giấu kỹ ở một nơi khác, đề phòng ả tình nhân của gã tìm ra.

Đúng lúc ấy, nhà kho phát nổ và bốc cháy ngùn ngụt và tiếng chiêng báo động khua vang. Đây là cơ hội ngàn vàng để Thuần Vu Kỳ trà trộn vào hàng ngũ đối phương.

Ngoài kia, lực lượng Bạch đạo đã đánh thốc lên. Đi đầu là những cao thủ La Hán đường, tay cầm thiền trượng nặng nề. Họ hùng dũng quét bay bọn bang chúng tuần sơn, canh gác vòng ngoài Tổng đàn, mau chóng đến được cửa chính. Mười mấy cao thủ giỏi khinh công vượt tường vào tiêu diệt bọn gác cổng và mở bung hai cánh cửa bằng gỗ dầy.

Quần bùng tràn vào như thác lũ và chạm trán ngay với bọn bang chúng Trung Nghĩa bang. Phe Bạch đạo gồm toàn những cao thủ hạng nhất như Định Sân, Định Si, Định Trí, Bạch Dương Tử, Bạch Thành Tử, Bạch Phát Tử, Thiên Nhã Tứ, Đàm Hoa Tử.

Đấy là người của ba phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, còn phe Thuần Vu gia trang thì có Tiết Cao Vân, Độc Cơ, Vệ Tính Cơ, Sầm Tú Linh, Lư Thiếu Kỳ, Hoàng Bưu, Ngô Phương. Đặc biệt là trận này có sự tham dự của Thần Xạ bang chủ Oa Ngọc Giao và trăm gã cung thủ. Vệ Cửu đã đi Nam Dương rước họ đến đây. Đông nhất là phái Thiếu Lâm với bốn trăm tăng lữ đời thứ hai. Tuy là kẻ tu hành nhưng quần tăng bắt buộc phải phạm giới sát vì Phong Đô Đại Sĩ đã ngang nhiên tấn công trước và uy hiếp tính mạng Phương trượng Định Tâm.

Trong lịch sử của mình, Thiếu Lâm tự đã từng gặp cơn pháp nạn. Thời Bắc Chu, Vu Đế đã cho quân phá hỏng chùa, bắt các sư sãi hoàn tục, đốt kinh, phá tượng phật.

Vua làm thì đành phải nhịn chứ Phong Đô Đại Sĩ thì hai ngàn tăng lữ Thiếu Lâm quyết chẳng chịu thua.

Cũng như những người còn lại quần tăng mặc hắc y, đầu bao kín chỉ chừa hai lỗ mắt. Bao năm rèn luyện võ nghệ giờ mới có dịp thi thố, các nhà sư có vẻ phấn khởi.

Lực lượng Bạch đạo có tổng số lên đến gần tám trăm, đông gấp rưỡi Trung Nghĩa bang nên mau chóng chiếm thế thượng phong. Bọn đệ tử của Phong Đô Đại Sĩ thương vong khá nhiều, tiếng rên la gào thét chấn động đêm xuân.

Xảo Quá Thiên và Liêu Vô Chỉ chưa xuất hiện, chỉ có Tổng hộ pháp Lương Toàn tức Thanh Long chân nhân Chữ Kỳ Luân, và hai mươi mấy gã Tinh sứ Chân Võ giáo ra mặt. Huyết Hồn chưởng tuy lợi hại nhưng cũng thất thế khi phải đối phó với hai ba cây thiền trượng một lúc. Định Sân, Định Si vây đánh Lương Toàn, khiến lão thở chẳng ra hơi.

Có ba hắc y nhân dáng người nhỏ nhắn đang tung hoành với dải khăn lụa trong tay tả. Họ đi đến đâu thì nơi ấy sực nức mùi thơm và đối phương gục ngã. Ba người này chính là mẹ con Độc Cơ và Lang Nha mỹ mhân Sầm Tú Linh.

Lúc này, Thuần Vu Kỳ đã trà trộn được vào khu hậu viện, đến các phòng đã vắng người phóng hỏa bằng chính dĩa đèn dầu và chăn nệm trong ấy.

Tuyết đã thôi rơi từ lâu, không khí mùa xuân ấm áp, khô ráo nên nhà cửa bắt lửa rất nhanh. Thuần Vu Kỳ đã hạ thủ một tên giành lấy cây đuốc thông để hành động thuận tiện hơn.

Chàng lướt đi khắp nơi, đả thương bọn phòng vệ và châm lửa. Không ai đủ sức ngăn chặn bước chân của chàng cả. Sau khi phóng hỏa được bảy tám điểm, Thuần Vu Kỳ quăng đuốc ẩn mình rồi thừa cơ trà trộn vào đám bang chúng, tiến lên phía tiền sảnh.

Trong cuộc loạn chiến, hai phe đứng lẫn lộn nên Phong Đô Đại Sĩ chẳng thể thi thố pháp thuật. Lão và Lương Bíeh tức Xảo Quá Thiên, phải dùng thực tài để chiến đấu.

Mười tám tên đệ tử nửa người nửa quỷ của Liêu Vô Chỉ cũng xuất trận, gương mặt nhợt nhạt như xác chết, tóc xõa dài và ánh mắt vô hồn khiến người ta phải lạnh gáy.

Bọn này đầu mặc trường bào trắng, ống tay hẹp, trông càng giống quỷ vô thường.

Chúng sử dụng trường kiếm ở tay phải còn tay trái thì thủ một chiếc thuẫn bằng thép, lớn bằng cái mâm. Có lẽ chiếc thuận này dùng dể chống đỡ những loại vủ khí nặng như thiền trượng, thiết côn, chùy, búa. chứ còn gươm đao thì chúng coi khinh.

Không hiểu Phong Đô Đại Sĩ đã làm thế nào mà thân thể của Thập Bát Vô Thường rất cứng rắn, kiếm đâm không thủng. Nhưng Huyền Cơ thư sinh là người thao lược nên đã có kế sách đối phó, huy động các tăng lữ Thiếu Lâm chặn đánh bọn vô thường. Những cây thiền tượng nặng ba chục cân thi nhau giáng xuống đầu Thập Bát Quỷ, chạm phải chiếc thuẫn vang lên những âm thanh chói tai.

Song quả thực là khó đối với Liêu Vô Chỉ và Phó Từ Phong. Hai lão này liên thủ di chuyển song song chẳng để bị vây hãm và không ngớt tung ra những đạo chưởng kình sấm sét, đả thương mười mấy cao thủ Võ Đang, Hoa Sơn.

Đinh Si đại sư thấy thế thầm niệm phật hiệu rồi trổ thần oai, xuất chiêu Bồ Tát Hàng Yêu, xông vào tấn công Thanh Long chân nhân. Vị thiền sư này tính tình kín đáo, khiêm tốn nên ngay người trong chùa cũng không biết rằng võ công của ông đứng đầu phái Thiếu Lâm, hơn cả Định Sân lẫn chưởng môn phương trượng.

Khi Định Si đã chấp nhận phá giới giết người thì rất lợi hại. Thanh Long chân nhân Chữ Kỳ Lân vội cử song thủ đẩy liền hai chưởng mãnh liệt, một đánh Định Sân, một chận Định Si.

Định Sân đại sư vội đảo bộ né tránh, song Định Si vẫn tiếp tục xông lên. Cây thiền trượng bằng thép ròng nặng nề trong tay ông bay lượn vù vù xé toang màn chưởng kình và giáng xuống thân thể đối phương. Chữ Kỳ Luân gào lên thảm thiết vì xương cốt dập nát.

Định Sân đại sư chắp tay lên ngực cúi chào sư huynh để tỏ ý bái phục. Hai người cùng lướt đi, chặn đánh hai lão ác ma đầu sỏ.

Liêu Vô Chỉ và Phó Từ Phong đứng cùng nhau tả xung hữu đột, mỗi lần hợp chưởng là vòng vây phải dãn ra. Định Trí đại sư, thủ tòa Giới đường và các cao thủ đầu não của hai phái Hoa Sơn, Võ Đang phải vất vả lắm mới giữ được an toàn cho bản thân trước U Minh Huyền Phong chưởng và Huyết Hồn chưởng pháp.

Lợi hại nhất vẫn là Phong Đô Đại Sĩ vì thân thể lão không sợ gươm đao. Vành tai bị đứt và những vết thương trẽn mặt Liêu Vô Chỉ đã được bàn tay tài hoa của Xảo Quá Thiên chắp vá lại, chỉ còn những vết sẹo nhỏ. Nhờ vậy mà trông lão rất oai phong, tay kiếm, tay chưởng, tung hoành như chốn không người.

Có hai đại cao thủ là Định Si, Định Sân tham chiến thì tình hình có khác hơn nhưng cũng không sao hạ được bai lảo quỷ ấy. Song một Hắc y nhân bịt mặt đã đến nơi, đứng vào hàng ngũ những người vây đánh.

Gã này nhân lúc Xảo Quá Thiên bị Bạch Thành Tử phái Võ Đang và Thiên Nhân Tứ phái Hoa Sơn tấn công mà xông vào. Phó Từ Phong cơ trí tuyệt luân, dùng kiếm chống đỡ Bạch Thành Tử và cử tả chưởng đẩy lùi Thiên Nhân Tử. Rồi lão thoái bộ lùi mau, tranh thủ đổi hơi và xạ một đạo kình chống chặn người thứ ba.

Nhưng lạ thay, thân hình của người ấy chỉ lảo đảo, lúc sang tả, lúc sang hữu, như rẻ gió mà đi vậy. Và khi đã vượt qua được đạo chưởng phong, gã hắc y nhân ập đến tựa cơn lốc, kiếm quang loang loáng dưới ánh lửa của đám cháy ở khu hậu viện.

Xảo Quá Thiên kinh hoàngtrước thân pháp quái dị kia song vẫn bình tĩnh vung kiếm tiếp chiêu. Với công lực thâm hậu vượt bậc nhờ Huyết thần đan và bản lãnh kiếm thuật thượng thừa, lão chỉ ngán có mình Thuần Vu Kỳ mà thôi. Nay tiểu tử câm kia đã chết, Phó Từ Phong yên tâm so kiếm với bất cứ ai. Họ Phó tinh thông cả hai pho Huyết Hồn và Âm Phong kiếm pháp tùy nghi sử dụng rất nhuần nhuyễn. Lão ta vốn là học trò của Hấp Huyết Âm Ma, song đã tình cờ tìm được nơi chôn cất Huyết Hồn Tôn Giả ở núi Ky Liên nên kiêm thông võ nghệ của Võ Lâm Song Huyết.

Lần này, Xảo Quá Thiên xuất chiêu Cuồng Phong Loạn Vũ của Âm Ma, dương gươm hung hãn và mãnh liệt, ỷ vào sức lực mà hiếp yếu.

Khổ thay, đối thủ của Phó Từ Phong hôm nay lại chính là Thuần Vu Kỳ, kiếm thủ số một của võ lâm đương đại. Chàng lại từng đối định với chiêu kiếm kia một lần nên chẳng còn lạ lẫm.

Thuần Dương kiếm pháp tuyệt diệu ở chỗ biến hóa Tùy Ngộ Nhi An, chứ không lệ thuộc vào chiêu gốc. Bởi thế, Thuần Vu Kỳ lập tức điểm liền mười bốn thức kiếm, khống chế đường gươm của Phó Từ Phong và thọc mũi kiếm vào cổ họng lão ta. Chàng ngại Xảo Quá Thiên mặc giáp bên trong nên đã tấn công vào chỗ chí mạng ấy.

Yết hầu bị thủng, máu tràn vào phổi và hơi thở tắc nghẽn, Phó Từ Phong trợn mắt rú lên ằng ặc, buông gươm cào cấu cổ họng để tìm dưỡng khí. Lão gục ngã nhưng chưa chết ngay mà lăn lộn rất lâu. Kẻ đại ác đã phải đến tội rất thê thảm.

Những người đứng quanh đấy phấn khởi reo hò và Tiết Cao Vân thì quát vang như sấm:

- Xảo Quá Thiên đã bị giết.

Lão nhỏ con nhưng giọng nói rất lớn, như loài ễnh ương vậy. Do đó, Tiết Cao Vân mới xưng là Kình Thiên đại hiệp. Quần hùng dù ở tận cuối Tổng đàn cũng nghe thấy rõ, lên tinh thần và trở nên dũng mãnh. Ngược lại đám bang chúng Trung Nghĩa bang, vốn là đệ tử Chân Võ giáo nên rất nản lòng khi nghe tin giáo chủ về trời. Chẳng ai trung thành với kẻ đã chết, có nhiều tên vượt tường đào tẩu. Số còn lại khinh công kém cỏi đành phải cắn răng chiến đấu hoặc qui hàng.

Phong Đô Đại Sĩ cũng chột dạ, tìm đường tháo lui nhưng cái gã mới giết Phó Từ Phong đã xông đến. Sợ đơn chưởng không ngăn được kình địch, Liêu Vô Chỉ liền buông kiếm vũ lộng song thủ xuất chiêu Thập Điện Đăng Đường xạ liền mười đạo chưởng kình phủ kín kẻ địch. Nhờ tu vi gần trăm năm chân khí nên Phong Đô Đại Sĩ có thể chia sức cho cả mười nên chẳng chưởng ảnh nào là hư cả.

Dù U Ảnh Ngự Phong thân pháp có kỳ diệu cách mấy cũng khó lọt qua màn lưới chưởng dầy đặc và mãnh liệt này. Thuần Vu Kỳ liền áp đụng yếu quyết Miên Nhu và xuất chiêu Chung Ly Khuy Vũ (Hán Chung Ly sợ mưa), trường kiếm loang nhanh như ánh chớp tạo thành bức màn kiếm kình kín đáo che chắn đầu và chân trước. Đồng thời, chân chàng bước nhanh theo đúng qui ước của pho khinh công U Ảnh Ngự Phong?

Đấu pháp này đã hiệu nghiệm khiến mười đạo chưởng phong bị trượt ra ngoài gần hết. Tuy nhiên, do lưới kiếm chịu đựng sự công phá ác liệt của U Minh Huyền Phong chưởng nên Thuần Vu Kỳ đã bị nội thương, miệng rỉ máu.

Nhưng rốt cuộc thì chàng cũng đả phá được chiêu chưởng pháp đáng sợ kia mà vẫn còn dư sức ập đến tấn công Phong Đô Đại Sĩ.

Diễn tả bằng lời thì lâu lắc, thực ra sự việc chỉ xảy ra trong vòng vài cái chớp mắt.

Do vậy, Phong Đô Đại Sĩ hoàn toàn bị bất ngờ trước việc gã hắc y kia không bị đánh văng và lù lù hiện ra trước mặt mình.

Liêu Vô Chỉ hốt hoảng múa tít đôi cánh tay dài thườn thượt và rắn chắc cố chặn đường gươm của kẻ địch. Tỏa Nhuệ kiếm chỉ được ưu điểm là bền chắc chứ không sắc bén như Hàng Long kiếm nên chẳng thể làm tổn thương đôi tay của họ Liêu.

Nhưng Thuần Vu Kỳ cũng chẳng có ý ấy, mục tiêu của chàng là gương mặt đối phương. Lần này, Thuần Vu Kỳ không dùng chiêu Tiên Nương Đối Kính như lần trước mà lại thi triển chiêu Hoa Diện Sầu Nhan (người rỗi buồn nhan sắc) điểm liền một trăm lẻ tám thức đâm nhanh tựa mưa rào.

Mũi kiếm nhọn hoắt nên làm cho da thịt và xương tay Liêu Vô Chỉ rất đau đớn.

Song không chỉ có thế, mũi kiếm lại len qua sơ hở đâm hàng chục vết trên mặt họ Liêu.

Lớp thịt và cơ bắp trên mặt chẳng dày, yếu tính đàn hồi vì nằm sát xương sọ, do vậy mà lớp U Minh chân khí ở đây rất mỏng.

Trong phút chốc, Phong Đô Đại Sĩ biến thành người mặt rỗ, với những vết xẹo lớn chứ không nhỏ gọn như kẻ bị đậu mùa. Cả hai vành tai cũng bị hớt đứt, mũi toát làm đôi. Giờ đây Xảo Quá Thiên đã chết, sẽ không ai vá víu sửa sang cho họ Liêu nữa. Lão chỉ cóthể tự an ủi rằng đôi mắt mình còn nguyên vẹn.

Lực đạo của những nhát kiếm đã đấy lùi nạn nhân. Thuần Vu Kỳ liền lao theo nhưng Phong Đô Đại Sĩ chẳng còn chút dũng khí nào, tung mình đào tẩu. Lão điên cuồng múa chưởng phá vây, gương mặt nham nhở đầy máu kia trông thật ghê rợn. Đám đệ tử Bạch đạo sợ chết khiếp tránh đường cho con hổ cùng đường thoát thân.

Mười tám gã Quỷ Vô Thường, đệ tử của Phong Đô Đại Sĩ cũng chạy theo thầy.

Bọn bang chúng Trung Nghĩa bang buông vũ khí đầu hàng đều được tha mạng và phóng thích. Quần hùng không reo hò mừng chiến trắng mà buồn bã thu lượm thi thể đồng môn, cõng những người bị thương rời khỏi chiến trường. Đã có vài chục đạo sĩ, hòa thượng tử trận, bị thương thì hàng trăm.

Bọn Huyền Cơ thư sinh ở lại Iục soát những công trình chưa bị cháy, tìm thấy tài sản của Trung Nghĩa bang và cả Kim Bài Hầu Tước của Liêu Vô Chỉ.

Huyền Cơ thư sinh cao hứng bảo:

- Mấy vạn lượng vàng này đem bố thí thì cũng giúp được rất nhiều người nghèo.

Riêng việc Phong Đô Đại Sĩ thì cũng không đáng ngại vì lão đã bị hủy dung, mất Kim bài, chẳng thể nhận là Công thần hay Hầu gia được nữa Tiết Cao Vân cười khanh khách:

- Đúng vậy. Ngay Thái Tổ Hoàng Đế có sống lại cũng không thể nhận ra lão ta.

Huống hồ quan lại các địa phương.

Họ phóng hỏa thiêu hủy tất cả những công trình chưa cháy và quăng hai trăm tử thi của phe đối phương vào. Hỏa táng cũng là một cách chôn cất rất được tín đồ Phật giáo ưa chuộng.

Nhưng trước đó, Thuần Vu Kỳ và hai cô vợ đẹp đã tìm thấy Đồng Quan Thần Phiến Đào Tử Mưu đang nằm ôm bụng rên rỉ trong một tiểu xá phía sau vườn hoa.

Lúc rời Lạc Dương, đi nửa đường thì đau bụng, Đào Tử Mưu biết rằng đối phương đã nghi ngờ nên hạ độc. Gã là cháu ngoại của Đường gia Tứ Xuyên nên trong người lúc nào cũng có giải độc đan.

Uống vào thấy đỡ, Thần Phiến tiếp tục trở lai Tổng đàn Trung Nghĩa bang. Đến nơi thì gã bị độc trùng hành hạ dữ dội, mê man không nói lên lời. Thần y của bang là Đào Tam Mộc cũng chịu thua vì tài nghệ không bằng Độc Cơ. Do vậy, Phong Đô Đại Sĩ chẳng biết việc liên minh Bạch đạo đang ở Lạc Dương. Lão sai người khiêng Tử Mưu quăng vào một chỗ, sống chết mặc kệ.

Vệ Tích Cơ liền thu hồi cổ độc và cho họ Đào uống linh đan. Gã tỉnh lại rất nhanh, ngơ ngác nhận ra ba người bịt mặt đang đứng cạnh giường.

Vệ Tích Cơ nghiêm giọng:

- Vạn hạnh hiếu vi tiên. Nhưng vì chữ hiếu mà chuyện ác nào cũng làm thì không được. Nếu lệnh đường biết túc hạ vì mình mà ám hại người khác một cách đê tiện thì liệu bà ta có vui sống được chăng? Tốt nhất là túc hạ nên thoái xuất giang hồ, đưa từ mẫu đi ẩn dật để bảo toàn khí tiết. Nếu còn nối giáo cho giặc thì ta sẽ không tha cho đâu.

Đào Tử Mưu hổ thẹn đến nỗi mặt tái xanh. Và gã cơ hồ ngất xỉu khi nghe giọng nữ thân thứ hai mỉa mai.

- Ngươi có biết Thuần Vu công tử chính là người đã cứu mạng ngươi trong trận Bán Nguyệt sơn trang và trận bị bọn Xảo Quá Thiên phục kích hay không?

Đào Tử Mưu ôm đầu gào lên:

- Ta quả là loài súc sanh.

Rồi gã bỏ chạy như điên cuồng, Thuần Vu Kỳ phải bám theo, ra hiệu cho quần hào dừng ngăn cản.


Chiến Giới 4D
Phiên bản dành cho Android tại đây!
Hồi (1-16)


<